Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

BÀN VỀ "KỶ VẬT" CHỦ TỊCH NƯỚC TRAO CHO TỔNG THỐNG OBAMA

Mời xem tiếp »

Thêm một tên vừa ngu vừa dốt.

Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn tuyên bố.
“Tôi cho rằng là những biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với Chủ tịch nước vừa qua chỉ là những hiện tượng. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì mưu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó.”



Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn càng phát biểu càng lòi cái ngu.
>> Mời bà con thưởng thức đầu óc “ngu như heo” của thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn:
 
"Ở Mỹ không có quyền cãi lại cảnh sát giao thông khi cảnh sát dừng xe anh để hỏi, anh chỉ biết chấp hành và nộp phạt... Nhưng ở Việt Nam thì người dân có quyền chất vấn cảnh sát tôi phạm lỗi gì, luật gì, tại sao dừng xe tôi...."

Ông thứ trưởng không biết luật lệ ở Mỹ nên nói bừa. Ở Mỹ, người dân có quyền cãi lại CSGT, nhưng nếu cảnh sát vẫn cho rằng họ đúng, vẫn ghi giấy phạt, thì người bị buộc tội vi phạm luật giao thông, có quyền không đồng ý với giấy phạt và đòi cảnh sát ra tòa đối chất. Ở VN, người dân có được ra tòa đối chất với CSGT vì bị phạt oan, sai khi điều khiển giao thông không ông?
Ở Mỹ không có chuyện cảnh sát làm tiền những người điều khiển giao thông như đang diễn ra hàng ngày ở VN. Ở Mỹ cũng không có dân chủ theo kiểu Việt Nam, khi kẻ tội phạm là con cháu các lãnh đạo thì được tha bổng, trắng án, hoặc được “khoan hồng”, xử nhẹ. Ở Mỹ, con tổng thống phạm tội vẫn bị ra tòa lãnh án như con dân thường.

Ông Sang xây một, Nguyễn Thanh Sơn phá mười

Phạm Trần (Danlambao) - Chủ tịch Nước Cộng sản Việt Nam Trương Tấn Sang và Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn đã không biết đánh giá chính xác về sức mạnh chính trị của người Mỹ gốc Việt ở Hoa Kỳ để đưa ra những lời nói gây bất bình, đãi môi, xúc phạm, gây chia rẽ và đẩy hận thù dân tộc lên một tầm cao mới.

Sang & Son

29 Comments


Đi biểu tình ‘chống Cộng’ mệt và tốn kém

Trần Đông Đức (BBC) - Thông thường các phái đoàn quốc khách đến thăm viếng Hoa Kỳ đều có lịch trình. Những người đứng ra tổ chức biểu tình thường được một số thông tin nào đó như chỗ ăn ở khách sạn, các cơ sở diễn thuyết, địa điểm chiêu đãi. Thế là, sẽ có những người âm thầm mua phòng tại khách sạn đó trong nhiều ngày trước. Những khách sạn như để đón lãnh đạo nước ngoài cũng không hề rẻ...

Từ phiên tòa tới miệng cống

Nguyễn Văn Thông (Danlambao) - Có thể nói, phiên phúc thẩm xử Đoàn Văn Vươn là một hành động dằn mặt của chính quyền đối với nông dân. Đây là lời tuyên bố sẽ chẳng có công lý nào cho kẻ yếu, nhất là khi kẻ đó giám đương đầu với bạo quyền. phiên tòa này chỉ duy trì thêm sự sợ hãi tối thiểu trong nhân dân, nhưng lại biểu hiện nỗi bất an tối đa của chính quyền. từ đây, con đường đang dần ngắn lại. đó không phải con đường dẫn tới thiên đường cộng sản, nó dẫn đến miệng cống nơi Muammar al-Gaddafi đang chờ.

Gỗ đã xấu, lại gặp Sơn quá tệ

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Mặc dầu thấm nhuần tục ngữ “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” như con nít quàng khăn đỏ thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh và phân biệt bác Hổ với bác Hồ, “thói đời” vẫn thích nhờ cậy vào nước sơn. Bộ mặt nhà cầm quyền của nước CHXHCNCC hơi bị “chưa đẹp”- viết theo văn hóa mới xhcn là “chưa đẹp” thay vì “xấu xí”- nên càng cần được sơn phết hơn ai hết, nhưng lại gặp phải thứ Sơn quá tệ.

Hậu công du

Nguyên Anh (Danlambao) - Sau chuyến đi gặp người đồng nhiệm là Tổng Thống B. Obama của ông Trương tấn Sang chủ tịch nước CSVN thì những diễn tiến mới đây cho thấy đảng đã thất vọng trước sự đón tiếp lạnh nhạt của cường quốc dân chủ đứng đầu thế giới. Và đã bán mình cho kẻ thù truyền kiếp qua phát ngôn của tướng Nguyễn Chí Vịnh trong dịp kỷ niệm 86 năm thành lập QĐNDTQ (!)

Nguyễn Thanh Sơn - Việt Nam dân chủ hơn Mỹ

Biếm họa KuocKuoc (Danlambao)

Police brutally repressed the prayer of land dispute petitioners at Saigon Notre Dame Cathedral

Danlambao - Around 9 am today, July 31, 2013, many land dispute petitioners from Southwest and Southeast provinces came to the famous Saigon Notre Dame Cathedral to pray for their property claims. Their lands and or real estate properties were robbed by local authorities. Although they have participated in dozens of lawsuits, the local authorities have never resolved the problems but deliberately ignored them.

Buổi cầu nguyện của dân oan tại Nhà thờ Đức Bà, SG bị đàn áp dã man

CTV Danlambao - Khoảng 9h sáng nay ngày 31/7/2013, nhiều bà con dân oan từ các tỉnh miền Tây và miền Đông Nam Bộ đã đi đến nhà thờ Đức Bà Sài Gòn để cầu nguyện, mong đòi được nhà đất. Họ là những dân oan bị cướp nhà đất và tham gia khiếu kiện hàng chục năm nay, nhưng chính quyền địa phương không giải quyết và làm ngơ với họ.

Lịch sử thường hay tái diễn

Ngọc Ẩn (Danlambao) - Ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gặp gỡ TT Mỹ Obama ngày 25-7-2013 tại tòa Bạch Ốc. Ông Sang có nhắc lại chuyện ông Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi sự giúp đỡ của TT Harry Truman ngày 28-2-1946. Năm 1946 ông Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Mỹ giúp đỡ, năm 2013 thì ông Chủ tịch Trương Tấn Sang kêu gọi Mỹ giúp đỡ thì đúng là lịch sử thường hay tái diễn.

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Phóng sự bí mật của đài ABC (Úc) về các blogger bị đàn áp tại Việt Nam.


Quan niệm Bồ Tát thường bị hiểu sai ...

Danh mục Chia sẻ, Chân lý, Cuộc sống

Một người nọ nhìn thấy cái kén của con bướm. Sau đó, anh thấy một cái lổ nhỏ xuất hiện. Anh ngồi chăm chú theo dõi con bướm trong vài giờ đồng hồ và thấy nó cố gắng vùng vẫy tìm cách chui ra ngoài qua cái lỗ nhỏ đó. Rồi dường như nó không có thêm một tiến triển nào nữa. Trông cứ như thể nó đã làm hết mức có thể rồi và không thể xoay xở gì thêm được.

Thấy tội nghiệp nên người đàn ông quyết định giúp con bướm. Anh lấy một cái kéo và cắt cái kén. Con bướm dễ dàng thoát ra. Nhưng nó có một cái thân căng phồng và đôi cánh nhỏ bé, teo quắt. Thế là, con bướm đó sẽ phải bỏ ra suốt cả cuộc đời nó chỉ để bò trườn với cơ thề sưng phồng và đôi cánh co lại. Nó không bao giờ bay được...

Cho nên Quy tắc thứ ba của người Ấn độ: "Trong mỗi khoảnh khắc mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm".

Người đàn ông tốt bụng đã không hiểu rằng chiếc kén chật hẹp và sự vùng vẫy của con bướm để chui qua được cái lỗ nhỏ ấy chính là cái cách mà Tạo Hóa buộc chất lỏng trong thân con bướm chảy vào cánh để sẵn sàng cho nó có đủ sức mạnh để cất cánh bay...

Vì vậy, đừng bao giờ tin vào quan niệm Bồ Tát độ mình cả, nếu Bồ Tát đến độ mình tức là Bồ Tát can thiệp vào việc mình cần phải làm là để thoát ra khỏi cái kén (thoát khỏi vô minh) chính mình là người cần phải mở ra mọi cái mà mình đã trói buộc vào, không có Bồ Tát nào làm thay cho mình...

Quan niệm Bồ Tát cứu độ bị hiểu sai kiểu như người mẹ giúp con " thôi con đừng đánh vần để mẹ đánh vần cho... Con đừng làm toán để mẹ làm toán cho...vân vân...và vân vân..."

Bồ Tát chỉ ngồi để thấy, để xem mình đau khổ như thế nào và thoát đau khổ như thế nào... mà Tâm Ngài vẫn hoàn toàn bất động, đó mới chính là Bồ Tát chân chính nhất.

Qua câu chuyện trên, con nhộng chỉ cần đợi thêm một chút nữa, nó có thể tự vùng vẫy thoát ra khỏi cái kén, thì nó mới đủ sức mạnh cất cánh bay cao... cũng như con người ta cần phải chịu đựng đau khổ thêm một chút nữa thì mới có được bài học Giác Ngộ cho chính mình... Thế cho nên, Bồ Tát chỉ khai thị mà không có cứu độ... khai thị cho mọi người thấy ra mọi cái đã có sẳn nơi mỗi người, và để mọi người biết tự trở về với chính mình...

Trong Phật Giáo không có quan niệm có người khác cứu độ... đừng xin xỏ mong cầu mà trở thành mê tín...

Đức Phật dạy, Pháp hộ trì người sống đúng Pháp, thuận Pháp... Những người sống thuận Pháp, khi gặp chuyện thì tự động có Chư Thiên hộ Pháp hộ trì... Cũng như một người sống đúng tốt thì được nhiều người tin tưởng giúp đỡ... Chân lý chính là Thực Tế chứ không phải ảo tưởng...

Viên Minh

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013

Ngư dân Việt Nam, mỗi lần đi đánh bắt xa bờ, muốn sống, an toàn, phải treo cờ Tàu Cộng. Một nỗi nhục quốc thể.


Chung một màu áo, chung màu cờ, thờ cùng một ông tổ thì làm sao có khả năng: Phải thoát Tàu

Trần Hoàng - Cứ đặt 2 lá cờ của đảng CSVN và cờ nước của VN cạnh bên cờ đảng CS Tàu và cờ nước Tàu thì ngay cả đứa bé học cấp 1 cũng biết là chúng có liên hệ với nhau vì chúng cùng có một màu đỏ choét, và cùng một loại ngôi sao vàng năm cánh...



Hôm nay là ngày kỷ niệm Cách mạng của nước Pháp, 14-7-1879, là ngày phá ngục Bastille. Hôm nay cũng là ngày đảng CSVN và Nhà Nước CHXHCNVN tiếp tục tự nguyện thần phục nước Tàu như họ đã làm mấy chục năm qua. 



Cứ đặt 2 lá cờ của đảng CSVN và cờ nước của VN cạnh bên cờ đảng CS Tàu và cờ nước Tàu thì ngay cả đứa bé học cấp 1 cũng biết là chúng có liên hệ với nhau vì chúng cùng có một màu đỏ choét, và cùng một loại ngôi sao vàng năm cánh. Cộng sản Tàu chiếm được Tàu năm 1949 thì năm 1950 ông Hồ Chí Minh cùng đảng của ông ấy chạy qua cầu cứu Tàu đem quân đội và súng đạn qua giúp họ đánh Pháp và chiếm một nữa nước VN. Kế đó là họ xin Tàu vũ khí, lương thực, súng đạn để vào “giải phóng” miền Nam. Cái ơn của Tàu đối với đảng CSVN và nhà nước CHXHCNVN là lớn lắm. Vì vậy, hễ ai nói động tới Tàu là có công an nhân dân VN tới nhà vây bắt, và tòa án phạt những bản án rất nặng. Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần... đang ngồi tù vì động đến Tàu. Và luật sư Lê Quốc Quân sắp sửa ra tòa cũng vì nói động tới Tàu.



Cách đây chừng 5 năm, 2007, nếu bạn nào có dịp vào trang web của đảng CSVN và của Bộ Ngoại Giao nước CH XHCN VN thì thấy cán bộ VN từ trung ương đến các tỉnh thành của VN viếng thăm nước Tàu nườm nượp và có không dưới 30 cuộc viếng thăm vì công vụ mỗi tháng. Nay thì họ gỡ bỏ tất cả các tin ấy, cũng như không loan báo các cuộc viếng thăm học tập nước mẹ nữa. 



Những bức hình nói lên tất cả:




 Nỗi nhục quốc thể
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp kiến Ủy viên Quốc vụ Viện Đới Bỉnh Quốc 2011. 



   (  Blogger Phạm-Dzũng 
Hành động của giới cầm quyền trong nước liên tục trấn áp người dân và liên tiếp nhượng bộ phương Bắc một cách vừa lén lút, vừa công khai chứng tỏ rằng Bắc Kinh đã nắm được giới cầm quyền Hà Nội, mà nổi bật nhất hiện nay là bộ máy công an… Như vậy, theo tác giả, “chính là Tàu đang cai trị VN”.  Đâu còn gì nghi ngờ nửa, mỗi lần chúng sang chầu Bắc-Kinh là mỗi lần người yêu nước bị hãm hại ngư dân khổ sở thêm, mỗi lần nhân dân nổi lên chống xâm lược là có ngay một tên lảnh đạo sang Tàu trấn an "Lòng tin chiến lược" và "Nhất trí" là điểm then chốt cho tình hữu nghị Việt-Trung "Đời đời bền vững..." lải nhải luôn mồm nhớ ơn, công lao to lớn.v.v nghe mà chỏi tai, không có một quốc gia độc lập nào mà lảnh đạo hèn đến mức phải cúi đầu làm nô lệ để được hưởng đặc quyền đặc lợi như ĐCSVN. Xin nói một câu trong bài hát của Việt-Khang "Việt-Nam giờ đây còn hay đã mất? mà giặc Tàu ngang tàng trên quê hương ta...!" có nên đặt câu hỏi nữa không?.   )
Nỗi nhục quốc thể


Đứng bên cạnh là Tập Cận Bình 
Trương Tấn Sang xin cúi đầu làm nô lệ, trong chuyến triều cống nước Tàu 20-6-2013. 








Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Trần Trường xin lỗi đồng bào hải ngoại khi vỡ mộng về xây dựng quê hương.



>> Người Việt tị nạn cs và bệnh “Stockholm”
(VVV) Ký giả Lê Bình tổ chức một cuộc họp báo mời truyền thông Việt Ngữ Bắc Cali tiếp xúc với ông Trần Trường đã diễn ra vào lúc 5:00 chiều Thứ Ba 13/11/2012 tại nhà hàng Hội An Bistro quy tụ khoảng 20 người.
Sau lời giới thiệu của ký giả Lê Bình về ông Trần Trường, người đã treo lá cờ đỏ sao vàng và hình Hồ Chí Minh trong tiệm của ông tại thành phố Westminster, California vào năm 1999, khiến hàng chục ngàn đồng hương giận dữ và biểu tình suốt 55 ngày đêm.
Ông Trần Trường cho biết năm 2005 ông bán tài sản tại Mỹ để đưa gia đình ông về Việt Nam đầu tư góp phần xây dựng đất nước. Trả lời câu hỏi của cử tọa, ông Trần Trường cho biết, trước tiên gia đình ông được thiếu tá Dương Ngọc Tiến báo Công an Hồ Chí Minh đưa về Hà Nội thuê nhà ở 3 tháng.
Sau đó ông về Đồng Tháp nuôi cá để bán. Thương trường cạnh tranh dẫn đến việc đưa nhau ra toà. Các phiên toà kéo dài để các quan chức Cộng Sản trục lợi. Cuối cùng, tài sản của ông Trần Trường bị cưỡng chế và phát mãi. Trong 4 năm, lúc đầu ông di chuyển bằng xe hơi, sau đó lái xe 2 bánh và cuối cùng là đi xe đò. Sau khi bán chiếc nhẫn cưới và tháo cả răng bọc vàng để đem bán, ông đã phải đi mò tôm để đổi gạo sống qua ngày.
Tiếp đó các ký giả đặt câu hỏi. Trả lời cho câu hỏi tại sao ông Trần Trường không xin lỗi trực tiếp ở Nam Cail nơi ông đã gây lỗi lầm, ông nói là ông đã có dự tính sẽ thực hiện tại Nam Cali.
Trả lời cho mục đích cuộc tiếp xúc này: Ông cho biết lý do ông trở về Mỹ, trước hết là ông ân hận và thành khẩn xin lỗi đồng bào hải ngoại tha thứ cho ông về việc treo cờ đỏ và hình HCM. Tiếp theo ông muốn trình bày sự thật phũ phàng của ông sau 8 năm sống dưới chế độ Cộng Sản và cầu cứu VNCH giúp ông có tiếng nói để đòi lại tài sản của ông. Cuối cùng ông cho biết ông rất cần gây quỹ để ông có tiền đấu tranh đòi lại miếng đất của ông và 3 tuần sau ông sẽ trở về Việt Nam.
Mỹ Lợi tường trình từ San Jose.

>> Sư hổ mang .....

Trần Trường, một việt kiều Mỹ treo ảnh bác Hồ và cờ máu (cờ đỏ sao vàng) tại phố Bolsa (Mỹ) bị dân chúng phản đối.  Đầu năm 2005, ông bán tài sản trên đất Mỹ cùng vợ và 2 con trở về Việt Nam làm ăn mua đất làm ao cá. Cứ đinh ninh công việc sẽ thuận lợi, nào ngờ... công an địa phương toa rập cướp đất. ( đây là bài học cho những tên ký giả ăn mày bưng bô cho CS )






>> FW: Thời mạt Pháp
Đón gió trở cờ ...   và bài học Trần Trường
Những lời nói của ông Thứ trưởng VC Nguyễn thanh Sơn trên tivi Bolsa cho thấy người cộng sản chưa bao giờ thật lòng với những gì họ nói. Điều đó không có gì lạ, vì nếu để ý sẽ thấy , từ anh lính quèn cho đến cán bộ cao cấp của cộng sản, từ trước và sau 1975 thì “cung cách” của người cộng sản có khác chút đỉnh, nhưng giọng điệu của kẻ “chiến thắng” (dù tạm bợ) bao giờ cũng lên giọng kẻ cả với người khác.
Nền “văn hóa bác, đảng” đã nhiễm sâu vào từng nếp nghĩ của người cộng sản, khi người cộng sản cần sự giúp đỡ của người Dân thì họ “hiền lành” như con cừu, “tử tế” hơn thày tu. đến từng lời nói cử chỉ, rất dễ làm xiêu lòng những người nhẹ dạ, bất kể đàn ông hay đàn bà. Nhưng khi xong việc, không cần nữa, thì lập tức trở giọng, đến người ngoài cũng thấy thẹn giùm họ. Như trí thức tham gia mặt trận “giải phóng miền nam” bị cộng sản vất vào thùng rác sau khi cướp được miền nam là ví dụ, Bác sĩ Dương quỳnh Hoa…Bài học không của riêng ai.
Sau ông Thủ tướng VC Nguyễn tấn Dũng thừa nhận chính thể VNCH trước Quốc hội cộng sản kỳ họp khóa tám, ngày 25 tháng 11 năm 2011 về chủ quyền Hoàng trường sa, thì hôm nay ông thứ trưởng VC Nguyễn thanh Sơn có ý định “Mời” Các cựu quân nhân Hải quân, Quân lực VHCH về Nước, trước là để”Vinh danh” vì họ cũng là nhũng công dân “ưu tú” đã chiến đấu để bảo vệ biển đảo của Tổ Quốc, sau đó cùng làm lễ cầu siêu cho các chiến sĩ trận vong, Hoàng trường sa, cho cả bên này và bên kia. “Ngài thứ trưởng thật cao (ngạo) thượng”
Thành thật mà nói, về thói lưu manh thì VNCH thua VC xa lắc, sớm đầu, tối đánh – thượng đội , hạ đạp, vừa đánh vừa đàm (đểu) thì VC vẫn là “đàn anh”. Hiệp định Paris 1973 là bằng chứng tố cáo cộng sản lật lọng, trở mặt với những gì họ đã ký kết. Điều duy nhất VC không bao giờ có được như VNCH đó là CHÍNH NGHĨA. Thật vậy, nếu chính thể VNCH là ngụy quyền, theo lời cộng sản thường rêu rao, thì VNCH không thể tồn tại đến bây giờ, nếu không là chính nghĩa thì không ai đủ sức, đủ kiên nhẫn để theo đuổi cuộc chiến chống cộng sản từ thế hệ này đến thế hệ khác, kéo dài đến những hơn 36 năm. kể từ 30 tháng tư đen 1975 đến tận hôm nay. Không là CHÍNH NGHĨA không ai dám lấy mạng sống mình để đánh cược cho hai chữ TỰ – DO bằng hành động vượt biển, dù phương tiện có khi chỉ là chiếc bè.
Ông thứ trưởng VC ngạc nhiên là phải, vì ở tuổi của ông, sinh ra và lớn lên từ đống rác XHCN làm sao ông cảm nhận được mùi hôi thối của nó, thì làm sao ông thứ trưởng có thể hiểu được chính thể VNCH với nền giáo dục như thế nào mà họ kiên nhẫn đến vậy? Xin thưa, không có gì khó hiểu cả, nền giáo dục nhân bản, đào luyện nên lớp người yêu chuộng hòa bình – công lý , và sự thật. Vì lẽ đó, đôi lúc “thật thà thường thua thiệt” nên người cộng sản mới lừa được họ.
Giờ thì không thể lừa được nữa đâu, những người chạy theo cộng sản ngày nay, thật ra là họ chạy theo danh vọng, tiền bạc mà thôi. Chờ mong cộng sản thay đổi, bằng góp ý,kiến nghị, có khác gì viết thư tình cho các cô hàng xén.
Một chút không khí tự do hôm nay, là nhờ vào sự đấu tranh không ngừng nghĩ của những người hiểu rõ bản chất cộng sản, mà cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản hải ngoại đã đóng góp một phần không nhỏ, cả tâm lực và tài lực.
Nhìn thẳng vào sự thật để thấy những thay đổi ít nhiều nơi đảng cs VN đều bắt nguồn từ sự đòi buộc của người Việt và cộng đồng Quốc tế, kể cả hành động “đổi mới hay là chết” của người cộng sản kêu gào, khi thành trì cộng sản sụp đổ cũng không ngoại lệ. đảng cs VN đổi mới để tồn tại chứ không đổi mới vì Dân.
Để vào được WTO lãnh đạo cs VN buộc phải thêm chút “oxy tự do” cho người Dân dễ thở và cũng là điều kiện đòi buộc của Quốc tế, nếu VC muốn tham gia thị trường mậu dịch của thế giới tự do. Nhưng khi vào được WTO rồi thì bản năng rừng rú, chứng nào tật nấy lại hiện nguyên hình, dẫn đến Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mở chiến dịch vận động đến Tổng thống Obama để áp lực cộng sản phải tôn trọng những gì đã ký kết về nhân quyền.
Nếu không có cuộc đấu tranh chống cộng sản trường kỳ hơn 36 năm qua, người Việt trong nước bị cộng sản biến thành những con vật biết nói tiếng người, không còn dám suy nghĩ thì nói gì đến hành động, kể cả những ai tự nhận mình là trí thức. Rất xin lỗi vì có thể nặng lời, nhưng đó là sự thật.
Trở lại với sự “vinh danh” VNCH của thứ trưởng – Tiến sĩ VC Nguyễn thanh Sơn.
33 năm cuộc chiến tranh Việt – Trung (17.2.1979 – 17.2.2012) Những người nằm xuống để bảo vệ biên giới phía bắc khi trung cộng xâm lược, rất cần tưởng nhớ công ơn của họ sao đảng cs VN không vinh danh, và không dám nhắc nhở đến những người chiến sĩ đã bỏ mình vì bảo vệ Tổ Quốc? Trong khi bọn xâm lược Trung cộng thì tưởng niệm những tên tàn sát đồng bào Việt
Nam, chúng gọi đó là “hành động tự vệ”, là dạy cho Việt Nam một bài học.
Thiển nghỉ. Chính thể VNCH không cần VC vinh danh, mà muốn nhìn thấy thiện chí của người    cộng sản bằng hành động cụ thể, bắt đầu từ việc tưởng chừng như nhỏ mà ý nghĩa rất lớn.
- Khôi phục nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, nhổ sạch các loại cây trồng làm ảnh hưởng đến mồ mả của tử sỉ VNCH.
- Tất cả những ai bỏ mình vì bảo vệ Tổ quốc trước giặc Tầu, dù là Quốc gia hay cộng sản đều phải được vinh danh vì họ dều là những người con của Mẹ Việt Nam.
- Thả tất cả tù chính trị, thật sự chấp nhận đối lập, tôn trọng ý kiến khác biệt,
Hãy bắt đầu từ những “việc nhỏ” mà ý nghĩa ngàn lần hơn “lời mời” cựu quân nhân Hải quân VNCH về Nước để VC vinh danh.
Không làm được những điều trên thì ý tưởng “hòa giải” kiểu VC của ông thứ trưởng Nguyễn thanh Sơn, chỉ là ý tưởng của đứa trẻ. Chưa biết đi đã chạy. Tất phải ngã.
TỔ QUỐC TỐI THƯỢNG – DÂN TỘC TRƯỜNG TỒN – ĐẢNG PHÁI LÀ NHẤT THỜI.
nguoithathoc1959



VẸM HỦI TRƠ TRẼN   Feb 17, 2012 06:10 PM
Nhìn mấy thằng phóng viên Việt Gian khúm núm vâng vâng dạ dạ, là những tên phản bội,   những thằng đón gió trở cờ , bưng bô cho VC .  Thêm nữa Nguyễn Thanh Sơn dám tuyên bố láo léo rằng MỸ không DÂN chủ bằng VN???    Đúng là VẸM nói láo không ngượng miệng.












Hoa Cải   Feb 18, 2012 12:40 PM
Nhìn mặt Nguyễn Thanh Sơn thấy vừa gian, vừa đần độn lại ăn nói giống y nhu tên đại tá CA ca Hải Phòng. Loại người như thế mà lại là thứ trưởng ngoại giao cơ đấy. Chính quyền CSVN chưa bao giờ vinh danh những bộ đội đã hy sinh bảo vệ đất nước khỏi họa xâm lăng Trung Quốc năm 1979. Thế mà giờ đây đi dụ khị Việt Kiều đòi vinh danh những anh hùng biển đảo VNCH mà các ông coi như kẻ thù. Thật là một việc làm vừa buồn cười, vừa ngây thơ, vừa bỉ ồi.
Các bác Việt Kiều ở bên xứ tự do, dân chủ đừng bao giờ mắc lỡm bọn chúng. Các bác hãy đấu tranh mạnh hơn nửa, vạch trần âm mưu của đám quan lại CS cho cả thế giới biết nhiều hơn nửa.


Đúng là dây thần kinh xấu hổ của người CS nó dứt hết rồi. Nghe ông Sơn, người đại diện cho ngoại giao nước CHXHCN VIỆT NAM - ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC, thao thao bất tuyệt chẳng khác gì Vẹt; giống hệt như nhửng loa phường ở VN. Làm ngoại giao mà nói láo không biết ngượng miệng, buộc tội cha Lý là làm mất trật tự, chửi quan tòa, đạp đổ đồ vật rồi lại nói là sẽ đưa ra hình ảnh. Thế mà những tên bồi bút của Phố Bolsa TV ngồi yên như phỗng, vâng vâng, dạ dạ, không biết đặt câu hỏi lại là vụ án cha Lý đã xảy ra bao nhiêu năm rồi sao không thấy chính quyền cộng sản Việt Nam đưa ra những hình ảnh đó. Thứ trưởng ngoại giao của một nước mà phát ngôn như thế chả trách nào công dân VN đi đén đâu cũng bị dân các nước khác nó khinh.


Cái tên thứ trưởng ngoại giao ngu ngốc Nguyễn Thanh Sơn nầy của cộng sản tôi tưởng đã bị mất chức rồi ! té ra CSVN không còn người nào tài giỏi hơn, trong vụ hắn ta viết thư nhờ dân biểu Cao Quang Ánh tập trung Việt Kiều Mỹ cho hắn giảng giải về những thông tin sai lạc , bị Dân Biểu Cao Quang Ánh mắng cho mất mặt, cụp đuôi, nay lại lôi được mấy thằng ký giả hạng bét, loại ký giả ăn mày bưng bô, loại ký giả làm báo, báo cho không ai nhận, gói xôi và bánh mì cũng làm bẩn thức ăn nên không ai nhận, thằng Nguyễn Thanh Sơn nầy chỉ lừa được cái đảng cộng sản lưu manh của chúng nó, lần nầy không mời được ông Nghĩa về Việt Nam thì bị mất chức đó nghe chưa, đừng có cao ngạo.


saigon
Kênh phố bolsaTV là 1 chi nhánh của bọn “Vẹm Weekly” bọn này cùng với Nguyễn Phương Hùng, Lữ Giang là 1 lũ cộng nô, chó đói của vc ở hải ngoại, nếu để ý Phố bolsaTV ta sẽ thấy rõ ý đồ của chúng là bêu rếu, bôi nhọ NVHN bằng cách tập trung nói về 1 vài nhân vật quá khích nhằm làm cho người xem có cảm tưởng NVHN toàn là những người điên cuồng, mù quáng, chúng phỏng vấn những người có hiềm khích với nhau và đưa ra những câu khích tướng làm cho họ chửi bới nhau, ông Ngô Kỷ đã mắc mưu bọn này khi ngồi truớc ống kính của chúng mà chửi bới để rồi sau đó chúng lại những người bị ông này chửi và khích tướng những người đó chửi lại tạo ra hình ảnh rất xấu. Nói chung là bọn chó đói của vc ở hải ngoại từ bao năm qua luôn bêu rếu NVHN là chia rẽ, thích chửi bới nhau, tuy nhiên thành công của cuộc vận động ký thỉnh nguyện thư mới đây đã 1 lần nữa thể hiện tinh thần đoàn kết chống cộng của NVHN và đó chính là 1 cái tát vào mồm của lũ tay sai, cần phải dành lời cảm ơn nhạc sĩ Trúc Hồ và đài SBTN, trung tâm Asia không chỉ cho sự kiên này mà còn cho rất nhiều hoạt động của họ từ nhiều năm qua.

-------------------------------------


Mấy tên bồi bút, bồi phóng viên Phố Bolsa TV, báo lề Đảng Việt Weekly muốn được nổi tiếng giống như tên Trần Trường dạo nào đó mà thôi. Rồi thì số phận của chúng nó sẽ được Cộng Sản VN đền ơn như =>  Câu chuyện về một Việt kiều bị phong tỏa tài sản bất thường

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI



 Tác Giả: Nguyễn Văn Luận
Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
damcuoiHN
Một đám cưới của người Hà Nội những năm đầu thế kỷ 20
Nguồn: media.tinmoi.vn
tựdo
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à...?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, ...nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt . Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là ...Vẹm!
Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.
Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn ...
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi, “Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!” Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm thù và ... tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”. Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
 
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!” Họ truy lùng... đốt sách! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là ... “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo...cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học. Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, ...đi tù!
Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội. Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”. Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”! Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ . Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân ...” là vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you”. Ở miền Bắc, thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “công tác” thế nào? Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “...rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng... các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”! Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”. Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh diện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiẻu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về...! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!
Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng ... nói dối!
Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải phòng, vùng biển.
Hải phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ...!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi....”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”. Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ ...!

tudo
-------------oo0oo---------------


Người Tìm Tự Do và Tượng Thần Tự Do

Tôi đến New York năm 1986, vào dịp kỷ niệm 100 năm tượng thần Tự Do uy nghi, kiêu hãnh trên hòn đảo Tự Do (Liberty Island) của nước Mỹ.
Khu Mahattan với những tòa nhà chọc trời, ngước mắt trông lên, cảm thấy mình nhỏ bé. Khách du lịch ngỡ ngàng nhìn ngó khắp nơi, thán phục nước Mỹ tự do có tượng thần Tự Do.
Theo dòng người, tôi bắt đầu từ Battery Park, quẹo vào Castle Clinton, xưa là pháo đài chống quân Anh, nay là nơi bán vé ferry (phà).
Qua cửa Castle là ra bờ biển đợi phà. Xa xa, nhìn thấy tượng thần giơ cao ngọn đuốc Tự Do trên làn sóng nhấp nhô của Đại Tây Dương bát ngát.
Tượng thần Tự Do là thần tượng của di dân tứ xứ, người mất tự do trên trái đất này tìm tới nước Mỹ tị nạn. Ai cũng biết tượng thần Tự Do với tên Statue of Liberty, dễ nhớ, không dài như tên nguyên thủy là Liberty Enlighting the World.
Thời gian chờ đợi xuống phà, đây đó vài người thầm lặng suy tư. Đó là những người mới tới Mỹ. Ngồi bên gốc cây, gió hiu hiu, xào xạc lá, tôi nhìn ra đại dương bao la nhớ lại mảnh đời dĩ vãng.

Tôi lớn lên tại Hànội, được ăn học đầy đủ trước khi khôn lớn. Năm 14 tuổi, tôi học trường Văn Hóa, ngôi trường định mệnh, sát Hỏa Lò, góc phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Thầy dạy Anh văn, ông Nguyễn Khang, có dáng tài tử xi nê hơn là thầy giáo, ngoài dạy học còn làm ở phòng Thông tin Mỹ, phố Tràng Tiền.
Năm 1953, phó tổng thống Mỹ Richard Nixon sang thăm Hànội, đã đến thăm trường tôi do thầy Khang mời.
Ngồi bàn đầu và là học sinh giỏi, thầy bảo tôi đại diện lớp. Sau khi bắt tay trả lời ông Nixon "I am fine, thank you", thầy vui, ông Nixon hài lòng, tôi được nhận quà tặng là một post card tượng thần Tự Do. Sau này vì tấm post card, tôi bị vào xà lim số 8 Hỏa Lò Hànội, dù chẳng ai biết ông Nixon đã tặng tôi.
Tôi đã tìm được tự do sau 28 năm đọa đày từ khi đất nước chia đôi, khi bức màn tre che kín miền Bắc, tăm tối âm u.
Cha tôi làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó.
Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.
Đấu tố, cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là "Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do".
17 tuổi tôi đi tìm tự do, bị bắt. Chiếc thuyền vượt tuyến giạt vào bờ bắc vĩ tuyến 17. Trải qua 11 trại giam, tôi bị giong về Hỏa Lò Hà Nội, trong xà lim số 8, mỗi xà lim giam một người. Văn nghệ sĩ Nhân Văn-Giai Phẩm chật cứng 4 dãy xà lim.
Biệt giam, tra hỏi, ép cung, làm sao tôi trả lời được những câu hỏi về chính trị lúc tôi còn nhỏ!
Từ trường học sang Hoả Lò, tôi chỉ còn nung nấu trong đầu hai tiếng Tự Do. Tôi sẽ đi tìm Tự Do suốt cuộc đời này! Từ đó tôi mang cái "mác": Trốn vào Nam theo địch, rồi dần dần thêm từng dòng "Âm mưu lật đổ chính quyền, phản động, làm tay sai CIA".
Lý lịch như vậy, sống trong thời điểm khốc liệt nhất của cộng sản Việt Nam, đời tôi còn quãng dài oan nghiệt. Tôi đã lên rừng, xuống biển, sang biên giới Việt Lào, vào miền trung để vượt tuyến vào Nam. Những tháng năm tù tội làm tôi hiểu cặn kẽ về cộng sản. Điều cha tôi đau khổ nói trước khi chết "Cha đã bị lừa..." nay tôi mới hiểu hết.
Năm 1981, tôi vượt biển lần thứ hai, bằng thuyền buồm đánh cá của một gia đình nghề chài, đi từ Hải phòng tới HongKong sau 26 ngày sóng gió. Định cư tại Mỹ năm 1982, tôi đã tìm thấy Tự Do .
Mãi suy tư nên lỡ chuyến ferry, phải đợi thêm nửa giờ, chuyến tới. Tôi không bận tâm vì chờ đợi, tôi đã đợi chờ gần nửa đời người, ba mươi phút chỉ là khoảnh khắc .

Sầu tủi đã trôi đi, chỉ còn vui tươi, hạnh phúc. Tôi còn có thể đợi chờ ngày vui tươi, hạnh phúc trên quê hương không còn cộng sản. 
Xuống ferry (phà), mũi tầu chiếu thẳng Liberty Island, mươi phút, nhìn phía sau, khu Manhattan lô nhô nhà chọc trời mờ dần trong nắng chiều New York, trời xanh lơ không một bóng mây mù. Xa xa, những con tầu lướt sóng, những cánh buồm nhiều mầu sắc đu đưa khiến tôi, trong giây phút, liên tưởng đến hàng trăm tầu thuyền tới cảng, một ngày tị nạn của người Việt Nam.
Trên ferry người người, tay bắt tay, chào hỏi nhau, mặt rạng rỡ niềm tin, nụ cười chia xẻ. Người ta nói với nhau bằng nhiều thứ tiếng, hiểu nhau bằng chỉ trỏ.
Những con hải âu bay lượn quanh phà, mấy em bé ngây thơ tung mẩu bánh mì cho chim sà xuống, đôi cánh trắng vẫy chào.
Phà vào bến, tôi bước lên bờ, thêm kích thích vì cảnh tượng trên đảo. Trước hết là tượng thần Tự Do cao lừng lững trên một building tức là phần bệ đá. Người xếp hàng thành hai cánh cung bao bọc cột cờ, dựng trên sân gạch hình tròn.
Theo mũi tên và đường dây căng, mất thêm ba phút mới vào được tới bệ, rồi vào khu bảo tàng, giới thiệu công trình trùng tu năm 1980, kiến trúc và lịch sử tượng thần Tự Do. Cô gái Á đông xinh đẹp, tươi cười chào mọi người và kể chuyện. Tôi dừng lại đây lâu hơn một chút, không hiểu hết những gì cô nói, nhưng nhìn sơ đồ, thống kê tài liệu, biết được nhiều điều về pho tượng hình phụ nữ mặc áo choàng này.
Tượng thần Tự Do hoàn thành năm 1876, do nhà điêu khắc Frederic Auguste Bartholdi tạo hình, cùng kỹ sư Alexandre Gustave Eiffel thiết kế, xây dựng, là món quà của người Pháp tặng nước Mỹ.
Tính từ mặt đất, tượng cao 305 feet (92,99 m), riêng thân tượng cao 151feet (46,50 m) . Bên trong có hai lối lên đỉnh tượng: cầu thang máy lên hết phần bệ đá, cho người già hoặc ai không thích leo từng bậc thang (192 bậc). Còn leo từ đầu, cả thảy 354 bậc thang xoắn ốc. Đầu tượng đội chiếc nón có 7 cánh nhọn xòe ra, tượng trưng cho biển và lục địa ( thời đó chưa biết 5 châu, bốn biển, mới có 7). Vành nón có 25 cửa sổ, đại diện cho 25 viên kim cương quí tìm được trên trái đất. Tay mặt thần giơ cao ngọn đuốc, đêm đêm rực sáng, tay trái giữ tấm bảng trông như quyển sách ghi chữ số La Mã: "July 4th, 1776", ngày thành lập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ta quen gọi là Mỹ.
Rất ít người dùng thang máy, đa số leo thang bậc lên tới vành nón, chặng cuối của hành trình. Tôi thận trọng bước lên bậc thang thứ nhất, lòng hân hoan khó tả. Mỗi bước leo lên vòng thang xoắn ốc, tới khoảng giữa thân tượng, cảm thấy như vào động tiên.
Ánh đèn mờ ảo phản chiếu bộ khung sắt chằng chịt, đủ sáng cho ta leo lên, càng cao, phần tượng nhỏ dần vì sắp tới đầu. Bậc thang chỉ vừa một người nên không chen lấn. Trên tôi là cô gái gốc Poland (Balan), tóc vàng óng ánh, người sau tôi là đàn bà Phi châu, trang sức, váy chùng sặc sỡ. Chỉ có tiếng rì rầm vọng từ vách tượng như tiếng kinh cầu bí ẩn. Dòng người lên, xuống như đàn kiến vòng vèo, êm ả trong không khí dịu mát của máy điều hòa nhiệt độ.
Từ cửa sổ vành nón tượng thần, tôi nhìn ra cánh tay thần Tự Do giơ cao ngọn đuốc soi sáng tinh thần Tự Do cho nhân loại, và rồi nhìn ra Đại tây Dương, nghìn trùng xa cách, nửa vòng trái đất là nước Việt Nam của tôi chưa có Tự Do.
Chuyến phà về, trở lại Manhattan, trời chiều lắng dịu. Trên phà cũng lắng dịu tiếng người như để tận hưởng một ngày ý nghĩa trong đời là đến tượng thần Tự Do, ghi lại bằng nhiều tấm hình kỷ niệm.
Người trèo lên đỉnh núi Himalaya hoặc theo khí cầu bay vòng quanh thế giới để lập một kỷ lục, tôi leo lên đỉnh tượng thần Tự Do để trọn vẹn một ước mơ từ nhỏ.
Hòa nhập vào dòng người New York, tôi đi nốt quãng đời yên vui còn lại của một người đi tìm Tự Do, tìm được Tự Do trên đất Mỹ.

------------------------------------------------------
Bản Tình Ca Của Một Người Tị Nạn
tự truyện tìm Tự Do của tác giả Nguyễn Văn Luận


Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do.

Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc:

"...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"

Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian.

Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đã mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình.

Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!"

Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản.

Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).

Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
*

Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản.

Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân trên sân trại. Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn tôi.

Tiếng trẻ thơ kêu "Má", tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.

Chồng Mai là người lính Cộng Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.

Một đêm mưa bão, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"!
Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ.

Con đã có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng Hòa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!".

Mai đã nhất định không đi kinh tế mới. Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản.

Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ.

Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân chính"!

Nhìn con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà thì thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư", theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ hai".

Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để lòng vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người .

Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những gì muốn nói.

Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà đã thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm tình. Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho gia đình tôi? Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn kỳ thị chủng tộc.

Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ chồng nhìn nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển.

"Từ nay chúng mình có Má, bé Nam có Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.

Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn turkey.

Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!".

Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.

Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.

Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu.

Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.

Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con.

Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung, miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng.

Tôi làm technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng!

Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một gia đình thật sự yêu thương.
"Ngày mai, chúng mình đi New York thăm con".
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.

Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New York.

Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đình tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người.*

Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai.

Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần thì sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đã chết.

Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Hòa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia . Việt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ.

Người lính chiến Cộng Hòa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội.

Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người lính chiến.

Anh đã để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa.

Đã quá nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn chồng.

Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi.

Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.

tudo NGUYỄN VĂN LUẬN