Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Danh Ngôn về Chủ Nghĩa Cộng Sản



Cố Tổng thống VNCH Nguyễn văn Thiệu nói :
" Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm."

Cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan nói :
"Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau."

Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsym nói:"Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại, những lời nó đã nói láo với người khác."

Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nói:
"Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối."

Bí thư đảng CS Nam Tư Milovan Djilas nói :
"20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu."

Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói :
"CS không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó."

Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mikhail Gorbachev:
"Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.
Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá."

Cựu Tổng thống Nga Putin nói :
"Kẻ nào tin những gì CS nói là không có cái đầu.
Kẻ nào làm theo lời của CS, là không có trái tim."

Ông Bùi Văn Giần nói:
" Ở với Cộng Sản chỉ tức mà chết!"


Một người không rõ tên đã nói:
“Cộng Sản sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực, chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của toàn thể nhân loại”


Hồ Chí Minh đã nói:
«Tôi không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê Nin ».
"Để cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới, tôi sẵn sàng mua chiến thắng đó dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn hay phải đánh Mỹ đến người VN cuối cùng".

Không hiểu khí thiêng sông núi VN thế nào mà lại có thể sinh ra một con ngươi kỳ dị như vậy? Chính Hồ đã gây ra bao cuộc bể dâu, chết chóc.
HoChiMinh

Một người không rõ tên đã nói:
"Đến ngay cái cột đèn nếu biết đi cũng còn muốn bỏ nước ra đi».

Nhà văn Dương Thu Hương đã nói:
“Sau chiến tranh ngót một phần tư thế kỷ, trên dải đất này vẫn chỉ nghe rõ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ bắc vào Nam, từ nam ra Bắc” và «Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, khôn ngoan hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thoả hiệp hơn vơi sự nhục nhã, dễ cúi đầu hơn trước tội ác».


Phim CHÚNG TÔI MUỐN SỐNG

 

Hán hóa Việt Nam
Gs Mai Thanh Truyết

Trung Cộng đang trên đường tiến chiếm Việt Nam, nếu không muốn nói là đô hộ Việt Nam, dưới nhiều hình thức như kinh tế, chính trị, xã hội, và lãnh thổ, thực hiện đường lối do Mao Trạch Đông chủ xướng ngay sau khi chiếm toàn lãnh thổ nội địa của Trung Hoa vào năm 1949, đặc biệt là sau khi Hồ Chí Minh sang Tàu cầu viện năm 1950.
TC, từ hơn thập niên trở lại đây đã tập trung đánh mạnh vào kinh tế và phát triển Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau:
1- Triệt hạ và làm tê liệt một số công nghệ cần thiết cho Việt Nam như công nghệ làm đường và giấy bằng cách cho du nhập quy trình và máy móc sản xuất lỗi thời (dĩ nhiên là có sự đồng thuận hay ăn chia của Cộng sản Việt Nam) và không có hiệu quả kinh tế. Kết luận là hai công nghệ nầy bị tê liệt và tiêu tốn nhiều tỷ Mỹ kim và Việt Nam vẫn tiếp tục nhập cảng hai loại nguyên liệu nầy từ TC và các quốc gia khác.
2- TC đem vào Việt Nam dưới hình thức chính thức hay không chính thức (tức là nhập lậu) hàng may mặc, thực phẩm, thậm chí cả trái cây và rau đậu và bán với giá rẻ mạt đánh bạt hầu hết sản phẩm của nông dân và ngành tiểu thương Việt Nam vì không cạnh tranh lại giá cả.
3- Về nhân sự, TC đã thực hiện một chính sách “di dân” và “giành lao động” bằng cách xâm nhập vào các hãng xưởng từ Bắc chí Nam, đến tận mũi Cà Mau. Chính sách xâm thực nầy tạo nên khủng hoảng lao động không nhỏ cho Việt Nam, điển hình là các khu chế xuất hay khu công nghiệp, hàng loạt công nhân Việt bị sa thải với lý do là không ký được giao kèo với nước ngoài, nhưng ngược lại họ thâu nhận công nhân người Hán.
4- Ngoài các nhận định trên, quan trọng hơn cả là việc đồng hóa theo chính sách tằm ăn dâu, TC âm thầm khuyến khích người Hán tại Việt Nam cưới vợ Việt hay người Thượng ở cao nguyên với mục đích lần lần tạo nên một đạo quân thứ năm tại đây khi hữu sự. Nên nhớ hiện tại tỷ số chênh lệch trai/gái ở Trung Hoa là 119/100; do đó, việc làm nầy cũng nhằm mục đích giải quyết nạn trai thừa gái thiếu trên.
Tất cả các vấn nạn trên đây, Cộng sản Việt Nam đã biết rất rõ và đã biết từ lâu. Trong cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành đã nhận định chính sách thay đổi của Trung Cộng ngay từ trang đầu như sau:
1- “Sự thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của những người lãnh đạo Trung Quốc..”
2- “Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ”.
Và phần kết luận của nhận định về chính sách của TC là:
“Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc vào Trung Quốc”.
Cách đây 30 năm, Cộng sản Việt Nam đã thấy rất rõ chính sách trên của TC với một tư tưởng chỉ đạo là chủ nghĩa đại dân tộc, với một chính sách là ích kỷ dân tộc, và với một mục tiêu chiến lược là chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Thế mà, tại sao, ngày hôm nay, Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt lại cam tâm cúi đầu khuất phục trước TC?
Từ hơn một năm nay, biết bao nhiêu việc làm, quyết định sai trái của đảng CS trong quá trình phát triển và bảo vệ đất nước đã làm toàn dân chao đảo, điêu đứng, từ người nông dân chất phác cho đến những người Thượng thiểu số, từ người lao động cần cù cho đến chị buôn gánh bán bưng, từ em sinh viên học sinh cho đến những nhà trí thức; tất cả đã đứng lên, nói lên những lời phản kháng qua nhiều động thái khác nhau. Nhưng tựu trung, vẫn là tiếng nói vô vọng của những người con Việt.
Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục mũ ni che tai, vẫn trơ trẽn nói “yêu những gì chân thật, ghét những gì dối trá”, như Thái thú Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố trong một cuộc đối thoại trực tuyến, nhưng hành động thì hoàn toàn trái ngược, vẫn tiếp tục gian dối.
Trong lúc đó, rừng thiêng vẫn còn văng vẳng tiếng rên xiết của 732 gia đình đang bị mất đất, mất ruộng, mất nhà từ hơn hai năm nay, còn đang chịu cảnh màn trời chiếu đất và sống lây lất qua ngày.
Và tệ hại hơn nữa là ngày 10/8/2009 cột mốc biên giới của TC lại được chính thức lấp đặt tại đảo Bảy Cạnh, một đảo lớn ở Côn Đảo mà lãnh đạo Việt Nam vẫn im thin thít...
CS Việt Nam đã đánh mất Hoàng Sa, nhiều đảo ở Trường Sa, đã đánh mất hàng ngàn Km2 ở vùng biên giới Bắc Việt, mất Ải Nam Quan, mất thác Bản Giốc. Lãnh hải bị thu hẹp và hoàn toàn mất chủ quyền trên biển Đông. Và hiện nay, đang mất dần Cao nguyên Trung phần Việt Nam qua việc khai thác bauxite của TC.
Còn gì nhục nhã cho bằng khi nhìn thấy người dân đánh cá quỳ lạy trước họng súng của TC.
Còn gì bỉ ổi cho bằng sử dụng thành phần “xã hội đen” ngụy trá làm “người dân bức xúc” để đàn áp bà con công giáo ở Quảng Bình, hành hung cả Linh mục.
Phải chăng tinh thần Việt tộc của người cộng sản Việt Nam không còn nằm trong não trạng của họ nữa?
Phải chăng chủ nghĩa giáo điều cộng sản đã biến thái họ thành những con người không còn giữ được bản sắc dân tộc của một quốc gia có chủ quyền để trở thành “con dân” của Đại Hán?
Phải chăng ngày hôm nay, một khi đã rút tỉa tài nguyên của quốc gia, nguyên khí của dân tộc để trở thành một nhóm tư bản đỏ, bị chính nhân dân ruồng bỏ, họ phải cam tâm bán đứng Đất và Nước cho Đại Hán?
Và còn bao nhiêu phải chăng khác nữa, tất cả chỉ nói lên tính cách phản dân tộc của một thiểu số cầm quyền.
Mà, một khi đã phản dân tộc, chắc chắn hậu quả “tất yếu” dân tộc dành cho sẽ là một hậu quả hết sức thảm khốc.
Bây giờ và từ nay, cũng chưa muộn để những người cộng sản lầm lạc trở về với dân tộc, trở về cội nguồn của một dân tộc có truyền thống chống xâm lăng của Bắc phương hơn bốn ngàn năm qua.
Cánh cửa vẫn còn mở rộng cho những người còn lại một chút nhất điểm lương tri.

Gs Mai Thanh Truyết

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Việt Nam nay đã mất !


“Sự kiện blogger Trương Duy Nhất bị bắt vì những bài viết khách quan vạch trần mặt trái tiêu cực của xã hội, một lần nữa, chứng minh rằng làn sóng những người bỏ lề đảng về phía lề dân đang ngày càng gia tăng…”
Sự kiện cộng sản bắt blogger Trương Duy Nhất, xử án tù dài hạn hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, tám thanh niên Công Giáo, l/s Lê Quốc Quân, và hàng loạt đảng viên cộng sản yêu nước khác trước đây đồng thời cũng cho thấy đảng cộng sản hiện nay hoàn toàn đã phục tùng và là tay sai của Trung cộng để thực hiện những chính sách cai trị Việt Nam do Trung cộng đưa ra! Những kẻ lãnh đạo cs hiện nay chỉ là những con rối, những người máy trong tay Trung cộng!
Người Việt Nam đã mất nước! Đảng viên cộng sản sẽ là những nạn nhân kế tiếp của Trung cộng; đồng lúc với đảng viên cộng sản sẽ là những lãnh đạo tinh thần và những tu sĩ của các tôn giáo, mọi tôn giáo ở Việt Nam.
Sự kiện Việt Nam mất nước lần thứ nhất khi Hồ Chí Minh chạy theo Cộng sản quốc tế, chủ yếu là Trung cộng đã đẩy Việt Nam vào cuộc chiến tranh tương tàn trong 29 năm, 1946-1975; Việt Nam mất nước vào tay Trung cộng lần này thảm họa sẽ ra sao? Diệt chủng Campuchea? Đàn áp khốc liệt kiểu Tân Cương, Tây Tạng? Thật khó mà nhận dạng những hình thức cai trị mà Trung cộng sẽ áp dụng, nhưng hình thức cai trị nào đi nữa của Trung cộng thì người Việt Nam phải chết càng nhiều càng tốt!
Bộ máy cai trị Việt Nam phải là bộ máy hoàn toàn theo thiết kế của Trung cộng. Đất Việt Nam phải trống, đàn ông người Việt Nam phải thưa thì đấy mới đúng ý muốn của Trung cộng!
Một lần nữa, phản ứng của người Việt Nam đối với âm mưu quyết liệt cướp nước của Trung cộng cho thấy sự sinh hoạt chính trị, ý thức chính trị của người nước Việt, cả trong nước lẫn ngoài nước, đều hãy còn quá non nớt, trong khi khả năng thực tế của trí tuệ Việt Nam vượt xa hơn thế rất nhiều!
Nguyên nhân tiềm tàng của tai họa này là gì? Từ đâu?
Khi người của một quốc gia mà sinh hoạt chủ yếu chỉ vì sự sống trước mắt, cái ăn, cái uống thường ngày, khi người ta sống chỉ cho những cái lợi vật chất cá nhân trước mắt thì đại họa mất nước phải đến nếu kẻ địch hung hiểm khai thác đúng chổ! Trung cộng đang là kẻ thù hung hiểm ấy đối với nước Việt Nam hiện đại!
Nguyên nhân sự mất nước của toàn dân Việt Nam trước tiên tất nhiên là do chế độ cộng sản, do những người chạy theo đảng cộng sản; nhưng nguyên nhân sâu xa hơn nữa là do cách suy nghĩ, cách sống của người Việt Nam!
Sự thật mất lòng, nhưng yêu cầu DLB đừng xóa comment này.
Mỗi người Việt Nam nên nhận biết và đừng chạy trốn sự thật rằng chính cách sống, cách suy nghĩ của mình đã làm người nước Việt nay đã mất nước! Đã qua rồi những thế hệ người Việt Nam anh dũng, kiên cường trong quá khứ. Người nước Việt hiện nay đã không còn ý chí bất khuất, kiêu hùng của tiền nhân!
Sự mất nước của Việt Nam trong thế kỹ hai mươi mốt có phần đóng góp của các tôn giáo lớn… rất lớn. Việt Nam đang cần tiếng nói của mọi tu sĩ, không phải chỉ tiếng nói của Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Linh Mục Nguyễn Văn Lợi…hay chỉ của một mình Hòa Thượng Thích Quãng Độ, hay Thượng Tọa Viên Lý…mà Việt Nam đang cần tiếng nói của tất cả tu sĩ của mọi tôn giáo thì may ra mới mong thay đổi cục diện của Việt Nam:
- Người Việt Nam khắp nước, mọi người lính trong quân đội Việt Nam phải biết người Việt Nam nay đã mất nước. Mọi phương tiện thông tin cộng sản bán nước đã ngăn cấm, chính người của các tôn giáo, tất cả mọi người, phải lên tiếng thì sự thực kinh hoàng vì mất nước của nước Việt Nam mới đến được tai của mọi người Việt Nam.
- Khi mọi người biết được hung tin rằng Việt Nam đã mất nước, mọi người phải đồng loạt đứng dậy cứu nước thì nước mới còn. Hiện trạng của Việt Nam, không một đoàn thể nào, không một đảng phái nào, không một tôn giáo nào có thể cứu nổi Việt Nam ngoại trừ toàn dân Việt Nam, người ở thành thị lẫn thôn quê, những người dân bình thường lẫn những người lính trong quân đội cộng sản đương thời.
Người mỗi quốc gia, mỗi cường quốc có khả năng ảnh hưởng đến tình hình Việt Nam phải lo giải quyết những vấn đề của quốc gia họ; tổ chức Phật Giáo Thế Giới là tổ chức phi chính trị; Roma ở quá xa Việt Nam, vấn đề của Việt Nam chỉ làm Roma lưu tâm khi Việt Nam đã trở thành điểm nóng của thế giới. Khi Việt Nam trở thành điềm nóng của thế giới thì cảnh hỏa ngục đã xãy ra rồi ở Việt Nam!
Roma có trăm, hàng ngàn ưu tiên phải giải quyết trên khắp đại cầu. Khi Roma quan tâm đến Việt Nam thì ách nô lệ của Trung cộng người Việt Nam đang mang vào cổ rồi!
Roma là nước ở quá xa, nhưng lửa Trung cộng thì sát vách nhà Việt Nam. Chính người Việt Nam phải chịu mọi hậu quả của hỏa ngục Trung cộng. Việt Nam phải tự tin ở sức mạnh đoàn kết của mình là chính để giải quyết đại họa của chính mình.
Việt Nam không thể trông cậy vào ai khác ngoài tinh thần đoàn kết sắt đá của dân tộc Việt Nam. Không vận dụng được tinh thần đoàn kết dân tộc, không nhận thức được thực trạng chính mình phải đứng dậy cứu nước - cả nước đứng dậy cứu nước chứ không phải sự đứng dậy của một số cá nhân lẻ tẻ – người Việt Nam đành chịu mất nước và chìm vào thảm họa do Trung cộng bày ra!
Chỉ đau đớn là trong khi thảm họa do Trung cộng mang đến không phải không tránh được, vì tránh nó không khó khăn gì, nhưng Việt Nam không tránh được chỉ vì cách suy nghĩ của người... Việt Nam - cả trong nước lẫn ngoài nước - cả đảng viên cộng sản còn có ý thức và người dân bình thường trong xã hội !!!
Hình biểu tượng


NguoiVN Mất nước vì đâu? 19 hours ago 
Không phải là dân trí chúng ta thấp. Cũng không phải chúng ta thiếu hiểu biết những giá trị nhân quyền, TDDC và đa nguyên đa đảng. Và cũng không phải người dân chúng ta không yêu nước hoặc thờ ơ với vận mệnh của quốc gia dân tộc.

Thứ nhất là CS quá tàn ác, ai ai cũng sợ chúng. Một sự sợ hải bao trùm toàn bộ xã hội đất nước VN. Mọi tiếng nói, mọi phản khảng của người dân hầu như hoàn toàn bị tê liệt. Có chăng chỉ một vài hành động đơn lẽ của mọi vài cá nhân đơn lẽ và do đó dễ dàng bị chúng dập tắt hoặc tiêu diệt từ trong trứng nước. Điều này đã cho phép chúng hoàn toàn tự biên tự diễn tác oai tác quái trên chính trường VN và rồi chúng hoàn toàn có tự do ký giấy bán nước hoặc những điều ước làm mất nước.
Thứ đến âm mưu chiếm VN của người tàu quá thâm sâu/độc. Một người dân VN bình thường sẽ không bao giờ nhận ra, cho đến một ngày nào đó, khi mở mắt ra mới biết VN đã thành một tỉnh của tàu. Người tàu họ sẽ không chủ trương đô hộ mà chủ trương tiêu diệt dân tộc Việt, nếu như họ chiếm được VN lần này. Dân họ đông, đất lại hẹp sẽ không có chổ cho con cháu chúng ta sau này. Người tàu họ biết tận dụng triệt để CNCS kết hợp âm mưu xâm chiếm VN của chúng. Với phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, chúng dần cài người của chúng vào những vị trí then chốt trong tất cả các ban ngành, hầu lũng đoạn chính trường VN cũng như làm suy yếu băng hoại xã hội VN trên mọi mặt. Thông qua những dự án và những phố tàu mọc lên như nấm, chúng cũng đã đưa người của chúng tới ở những vị trí then chốt có tinh chiến lược trên khắp mọi miền đất nước VN.
Âm mưu chiếm nước VN của giặc tàu đã quá rỏ ràng. Khi mọi sự đã sẵn sàng, chúng sẽ tuyên bố VN là một tỉnh của tàu. Chuyện này sẽ không còn bao xa. Tôi không nghỉ quá năm 2020. Nếu như dân VN nổi loạn, chúng sẽ đem quân vào VN như chúng đã làm ở Tây Tạng và Tân Cương.


Mất nước vì đâu? NguoiVN 15 hours ago 
Thứ nhất là CS quá tàn ác, ai ai cũng sợ chúng. Một sự sợ hải bao trùm toàn bộ xã hội đất nước VN…

Có kẻ thù nào tốt với dân bị trị? Mục đích của kẻ thù là làm cho nạn nhân bị chúng cai trị phải sợ hải. Dân ta sợ hải là đúng với ý muốn của nó! Dân ta sợ hải thì chúng sẽ đè đầu cưỡi cổ thiên thu!

Cộng sản ở đâu? Chúng ở lẫn lộn trong dân chúng, trong xóm, trong thôn của mình.
Cộng sản có phải là con người? Chúng cũng có tay chân, mắt, mủi miệng như mọi người khác? Cái hơn người của chúng chỉ là khẩu súng lục chúng mang về nhà hậu thân. Chúng phải có súng lục để hậu thân là vì chúng sợ. Chúng sợ, có biết làm sao cho chúng khiếp đãm?
Chúng nghe được là do có người mách lẽo. Chúng thấy được là do có người chỉ chọc. Có biết làm sao để cộng sản có mắt mà không thấy được? Có tai nhưng chúng không nghe được? Có biết làm sao để chúng vừa mù, vừa điếc?
Chúng có bà con, dòng họ, thân thuộc? Có biết làm sao để tai chúng nghe được những lời của lẽ phải?
Một người đứng dậy chống cộng sản chúng sẽ bắt, sẽ bỏ tù, sẽ tra tấn cho đến chết. Cả thành phố, cả nước nổi dậy, chúng sẽ bỏ chạy như vịt hảng!
Khuân một bao gạo 50 kilô cũng là một việc ghê gớm với một người lười nhác, có tính ăn sẵn, nhưng đẩy một khối đá một ngàn tấn không có gì khó khăn với người có tính năng động, tháo vát, quyền biến và chút đầu óc.
Một chiếc xe hư giữa đường muốn đẩy vào lề, phải tìm đến người muốn đẩy giúp, đừng tìm đến người không muốn đẩy!
Phát biểu như trên là biểu hiện của người có tính thích ăn sẵn và là người thích nằm chờ chết hơn là tính quyền biến, quật cường để sống đời tự do!
Thượng Đế sinh ra con người khác nhau ở chổ người sống với sự khôn ngoan, cương quyết, đỡm lược khác với những cá nhân chỉ biết có than vãn, hèn nhát, bạc nhược, chờ người khác làm sẵn để mình hưởng. Dân trí thấp hay dân trí cao nằm ở chổ này đây!
Cộng sản quá tàn ác là câu nhận xét thừa…vì không ngu dốt, không tàn ác không phải là cộng sản!
Tự do không có ai cho không mình. Xin cho tôi tự do… là lời xin trong vô vọng và là lời xin ngớ ngẫn!
Muốn diệt giặc phải biết giặc sợ gì? Để giết giặc trước hết cần có ý chí giết giặc, diệt giặc. Để thắng giặc phải biết mình cần có gì…
Đánh giặc không phải cứ xông vào đánh nhầu với quân giặc, mạng đổi mạng mà thắng giặc. Thắng giặc cốt ở óc tổ chức. Óc tổ chức để đâu? Không có óc tổ chức thì biết gì mà bàn chuyện đánh thắng giặc dễ hay khó?
Đánh giặc là để thắng chứ không phải để thua, chưa đánh đã nghĩ đến chuyện thua thì hãy đợi đấy, cái chết giặc đã dành sẵn cho mình, dù bạn có là ai!

Tuổi trẻ Việt Nam không biết sợ, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, những thanh niên Công Giáo, Tin Lành, những đồng bào Hòa Hảo, Cao Đài già cũng như trẻ, người ta chỉ sợ có lẽ phải và Thượng Đế, Đấng Chí Tôn.
Người già mà bàn việc nước bạc nhược còn thua trí trẻ thì không mất nước mới là việc lạ! Rất may những đầu óc bạc nhược như thế này còn lại chẳng được bao nhiêu. Những đầu óc như thế này sống mà như đã chết! Hay còn tệ hơn, sống chỉ để làm vướng bận tay chân, làm phiền người khác, con cháu quanh mình!
Hình biểu tượng


NguoiVN Mất nước vì đâu? 7 hours ago 
Không đơn giản như bạn nói. CS là một bọn khủng bố có hệ thống. Hơn nữa, sự khủng bố của chúng được sự chỉ đạo và dạy dỗ từ quan thầy tàu của chúng. Người tàu là bậc thầy của tội ác diệt chủng. CNCS chỉ bằng một phần rất nhỏ của bọn tàu. Chúng cũng như quan thầy tàu của chúng đều chủ trương nhổ cỏ nhổ tận gốc. Chúng không bao giờ chừa một lối thoát hay một con đường sống cho những người dám chống lại chúng hoặc là kẻ thù của chúng. Có chăng chỉ từng giai đoạn tạm thời mà thôi. Từ vật chất cho đến tinh thần. Từ công ăn việc làm cho đến vợ con trong gia đình. Từ cha mẹ anh em cho đến bạn bè người quen. Chúng không bao giờ từ chối bất cứ một thủ đoạn nào. Tôi đã từng chứng kiến một vài sĩ quan trong quân lực VNCH, họ trong rất mạnh mẽ oai phong trước ngày đi tù. Nhưng sau ngày ra tù họ trong lúc nào cũng lấm lét như sợ hãi một điều gì đó.
 





 
 

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

THỔN THỨC CHO VIỆT NAM

Đoàn Văn Toại

Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Lời tác giả: Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam.Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. 


Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?

Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.

Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.

Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.

Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.

Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.

Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” 

Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).

Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. 

Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.

Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.

Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. 

Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. 

Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.

Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.

Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.

Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” 

Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!

Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.

Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.

Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.

Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. 

Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu.

Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. 

Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.

Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.

Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. 

Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. 

Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.

Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. 

Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.

Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu.

Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:

‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.’

(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu).

Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.

Hơn thế nữa, Lê Duẩn, Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”.

Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.

Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. 

Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. 

Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. 

Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury, “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam.

Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.

Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.

Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. 

Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.

Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. 

Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. 

Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.

Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. 

Ông đã nói trong cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.

Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.

Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.

Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. 

Ông ta đã nói với chúng tôi, 

“Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. 

Ông ta đã kết luận, 

“Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.

Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.

Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. 

Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. 

Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi,'Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. 

Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.

Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. 

Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. 

Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.

Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. 

Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. 

Và Việt Nam là một bài học về sự thật.

Đoàn Văn Toại
Nguồn: batkhuat


"THI-SĨ GIA-TRUYỀN
                   
"MỜI XEM THƠ CHỬI CỘNG-SẢN TRONG HÀNG NGŨ CON CHÁU CÁN-BỘ CỘNG-SẢN VỊÊT-NAM."
Đây là bài thơ "nhái" post bởi cháu nội của ông tổ Việt Cộng Cù Huy Cận, con trai ông Cù Huy Hà Vũ là Cù Huy Hà Bảo làm thơ hay cũng như ông Nội mình:
Ca dao thời chống cộng sản

Ai đem cộng sản sang sông
Để cho cộng sản diệt dòng giống Tiên
Trọng ơi thương lấy Dũng cùng
Tuy rằng khác ý nhưng chung đảng hèn
Một cây làm chẳng nên non
Trọng , Sang cộng Dũng ta còn khổ hơn
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng theo nước Trung Hoa
Cho tròn bốn tốt mới là anh em
Ước gì cho gió nổi lên
Thổi bay cộng sản những tên giết người
Nói lời phải giữ lấy lời
Đừng như Trọng lú nói rồi quên ngay
Ba đồng một nắm trầu cay
Hoàng sa đảng bán từ ngày còn không
Công Hàm chữ ký của Đồng
Bây giờ còn chối lòng vòng làm chi
Dũng nhất Sang Trọng đứng nhì
Trong ba thằng ấy Hùng thì đứng ba
Trăm năm trong cõi người ta
Thằng dân với đảng vốn là ghét nhau
Trải qua mấy cuộc bể dâu
Thằng dân quá khổ đảng giàu thêm ra
Con ơi nhớ lấy lời cha
Nếu còn cộng sản Trường Sa của Tàu
Đảng ơi chớ vội cười lâu
Cười người yêu nước hôm sau người cười
Chơi bạn chọn bạn mà chơi
chọn chồng có đảng là đời tiêu tan
Đàn kêu tích tịch tình tang
Bao giờ hết cảnh dân oan bao giờ
Bạc liêu nước chảy lờ đờ
Chị Tần có mẹ mới vừa tự thiêu
Chiều chiều Bìm Bịp kêu chiều
Đừng nghe cộng sản nói điêu vô cùng
Bây giờ Kiên Hỏi Trọng Khùng (1)
Bỏ đi điều bốn luật rừng được chưa
Kiên hỏi thì Trọng xin thưa
Mai tao đuổi việc,cho chừa nhé con
Còn trời còn nước còn non
Nếu còn cộng sản dân còn khổ đau
À ơi... ví dầu ví dậu ví dâu
Đảng ta đánh Mỹ cho Tàu cho Nga
Má ơi đừng gả con xa
Gả con qua Mỹ để mà yên thân
Má ơi đừng gả con gần
Công An bộ đội cù lần học ngu (2)
Lên chùa thấy phật muốn tu
Về nhìn đảng cướp muốn tù cho xong
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời cộng sản nó thương dân nghèo (3)

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2013

Tôi thấy em thấp thoáng áo về

Tôi thấy em 
Thấp thoáng áo mẹ về 
Tà áo dài trắng mẹ may 
Họ không cho em mặc
Nhưng em đứng đó, thẳng người, nghiêm trang 
Như em học trò muôn thuở hiền lành, lễ phép, nề nếp 
Và hiên ngang
Nếp áo của mẹ, của cha, của thầy, của cô, của trường lớp 
Nếp áo vinh quang của quê hương bốn ngàn năm 
Áo hình chữ S đi suốt những chặng đường lịch sử 
Mà chưa hề lấm bẩn 
Quê hương mình bây giờ rách rưới 
Em học trò đứng lên giữa hỗn mang cuộc đời 
Đem lại một nụ cười tươi 
Quê hương hôm nay hãnh diện có các em 
Phương Uyên ơi, Nguyên Kha ơi 
Đứng thẳng lên các em nhé 
Áo trắng dân chủ 
Thấp thoáng về trên đôi vai các em


Cảm ơn bản nhạc của nhạc sĩ Trúc Hồ đã cho tôi cảm xúc viết vài dòng: Ta thấy em nỗi tủi hờn của mẹ Ta thấy em là lẽ sống muôn dân Ta thấy em là tia nắng thiên thần Ta thấy em đang ẩn mình ngục tối Ta thấy em như bắt đầu ngày mới Ta thấy em là tiếng nói thiêng liêng Ta thấy em như đôi mắt mẹ hiền Ta thấy em như tiền nhân giữ nước Ta thấy em vạn bàn chân sẽ bước Ta thấy em như vận nước đang chờ Ta thấy
 
Phan Tùy .


Đọc bài thơ "Tôi thấy em thấp thoáng áo về" của nhà thơ Hạ Nguyên 72 viết cho Phương Uyên cùng viết cho Quê huơng VN yêu dấu thật tình tôi đã không ngăn được đôi giòng lệ... lỡ ứa.Với tuổi đời với hoàn cảnh gặp nhiều không may cuả chính bản thân tôi đã từng bị sống trong "thiên đường" công sản VN giọt nước mắt ê chề với thiên đường cộng sản qủy quái ấy nó đã khô từ lâu nhưng...Bỗng
Tôi thấy em
Thấp thoáng áo Mẹ về
Tà áo trắng Mẹ may
Họ không cho em mặc

Giọt nước mắt lặng lẽ rơi.Ôi! Những giọt nước mắt buồn của tôi dành cho quê hương dành cho dân tộc và cuối cùng là dành cho Phương Uyên Nguyên Kha như một lần chia sẽ nhỏ nhoi và cầu mong bình yên đến với hai em.Ngày mai Trời lại sáng trên đất Mẹ thân yêu .Anh mải đứng bên hai thiên thần bé nhỏ nhưng chí hùng của anh...




  • bom 2 days ago

    Aó trắng em là aó cuả dân chủ,
    Aó xanh em là chiếc aó thức tỉnh đoàn TNCS
    Aó nào em mặc cũng xinh cả
    Nhưng em không mặc aó đỏ cờ sao vàng,
    Cho dù em toan là "cháu ngoan bác hồ?"
    đã đứng dậy dõng dạc trước toà man di,
    Cho cả toà xấu hổ cúí mặt
    Sá gì chút tù tội Việt Nam tôi,
    Em đứng đấy sáng ngời cho CNXH tối tăm,
    Mong mọi người hãy đứng dây cùng em.
    Hầu bảo vệ non sông không mất tên,
    Đem dân chủ tự do cho thế hệ sau


  • mythanh 

    Tôi thấy dòng chữ Uyên viết bằng máu thắm
    "Tàu Khựa Cút Khỏi Biển Đông"

    Từng nét nối nhau như lượn sóng hồng
    Ngạo nghễ, hiên ngang
    Khởi từ Hát Giang, đến Bạch Đằng,
    Cuồn cuộn.

    Tôi thấy hai khuôn mặt trước tòa, non nớt
    Mà tinh anh soi suốt bạo quyền
    Nguyên Kha, từng lời bất khuất, cương kiên:
    "Yêu nước, yêu dân, không phải tội..."

    Những con số bật ra
    mười bốn năm đau nhói
    Bản án rừng,
    đất nước thời đen tối
    Hình ảnh Uyên, Kha
    Cứng cỏi ngẩng cao đầu
    Tôi nơi đây, cúi xuống nén lòng đau
    Viết dòng thơ
    Kính tuổi trẻ thanh cao yêu nước.

    (Thân kính gửi đến ba mẹ của Nguyên Kha và Phương Uyên. Xin được chia sẻ sự đau đớn cũng như hào hãnh. Cầu chúc hai gia đình luôn vững vàng để hộ trợ hai em. Chúng tôi luôn bên cạnh các bạn.)



  • tưsongthach  

    máu em viết thành giòng chử đuổi giặc tàu ,như hịch vua QUANG TRUNG khi lên ngai hoàng đế . đứng giữa trời đất nước VIỆT NAM em nói rỏ ràng với kẻ thù là em yêu nước .có sợ gì đâu ? nhưng bao nhiêu kẻ thù đang sợ ,khi dân nổi lên chúng bị - cụt đầu ,


    TRIỆU LƯƠNG DÂN tưsongthach 

    Lời tuyên bố hùng hồn mang theo cả Hồn Thiêng Sông Núi
    ============================
    "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm - Nguyễn Phương Uyên

    Khi biển người biển tầu tràn Biển Đông
    Con Trung cháu Triệu giống Lạc Hồng
    Tuyên bố mang Hồn Thiêng Sông Núi
    Vạch trần trước tòa bọn bán Non Sông
    Cổ vũ động viên cả Thế hệ Trẻ vào cuộc
    Trong ngoài Tổ Quôc Việt Nam vọng đồng
    Kính phục Tấm lòng em vì Dân vì Nước
    Cảm ơn Mẹ cha sinh thành đóng góp công
    Song sắt cửa ngục bật tung Độc tài sắp đổ
    Cánh Rồng bay ra Toàn Dân ngóng đợi chờ trông

    ==============================
    Lời tuyên bố hùng hồn mang theo cả Hồn Thiêng Sông Núi
    =============================
    Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội. - Đinh Nguyên Kha.

    Lời trần tình em đi vào Sử xanh
    Tác động như Ngọn sóng Bạch Đằng
    Ngăn cản biển người biển tầu tràn ngập
    Vào lãnh hải ngư trường trên Biển Đông
    Dũng cảm yêu Nước Việt, yêu Dân tộc Việt
    Động viên thức dậy hàng triệu Tấm lòng
    Trước Vành móng ngựa bất khuất bất bạo động
    Chính em Thẩm phán xử bọn bán Núi Sông
    Cửa tù song sắt bật tung Độc tài sắp đổ
    Cánh Rồng bay ra Toàn Dân ngóng đợi chờ trông 


    TRIỆU LƯƠNG DÂN

Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Những ai còn đang đứng bên lề cuộc tranh đấu vì chủ quyền đất nước, vì tự do dân chủ nhân bản hãy bước lên chuyến tàu lịch sử hôm nay để cùng với hai em đi về phía bình minh của dân tộc Việt Nam. Đời người rồi sẽ qua nhưng dân tộc Việt Nam phải còn và mãi mãi sẽ còn. Con tàu đi cứu nước còn nhiều toa rộng, đủ chỗ cho mọi người, mọi thành phần, mọi tôn giáo, mọi quá khứ. Hành động cứu nước cũng rất nhiều để chọn, không nhất thiết phải vào tù ra khám, không nhất thiết phải tìm cho ra được những cây búa lớn để đập vở bức tường chuyên chính, nhưng một bàn tay nhỏ, một bước chân xuống đường chống thực dân đỏ Trung Quốc, một thái độ không hợp tác với nhà cầm quyền CS, một lá thư thăm hỏi các em các cháu trong tù trong những ngày sinh nhật, lễ lớn, một tấm vé tham dự bữa cơm gây quỹ giúp các em đang bị tù hay đang bị khó khăn v.v... cũng mang đầy ý nghĩa...