Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Bộ phim “Hoàng Sa Việt Nam - Nỗi đau mất mát” bị cấm tại TPHCM?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-11-30
Bộ phim “Hoàng Sa Việt Nam - Nỗi đau mất mát” nói về cuộc sống của ngư dân huyện đảo Lý Sơn và Bình Châu do ông André Menras-Hồ Cương Quyết hợp tác với Đài Truyền hình TPHCM thực hiện năm 2011 đã bị cấm chiếu ra mắt vào đêm 29 tháng 11 tại quận Bình Thạnh vừa qua.

RFA file
Bấm bên dưới để nghe Ông André Menras Hồ Cương Quyết tác giả bộ phim "Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát".




Nguyễn Quang Vinh Vì sao không phỏng vấn Bí thư chi bộ hoặc lãnh đạo Lý Sơn? Câu hỏi này cho ông André Menras yêu quý, tác giả của bộ phim tài liệu “Hoàng sa- nỗi đau mất mát”. Vì có câu hỏi này nên mới có câu nhận xét của HTV rằng phim trên không có tính đảng.
Lâu nay, đa phần phim phóng sự, tài liệu của nước mình trên ti vi, dù phản ánh bất cứ vấn đề gì ở vùng đất nào đó, kiểu chi cũng phải có câu trả lời hoặc là Bí thư chi bộ, hoặc là trưởng thôn, hoặc là lãnh đạo địa phương và mẫu số chung là : Dù địa phương chúng tôi còn gặp khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương, có sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo cấp trên, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện… 
Ví dụ nhé, cuối phim, thay vì ông André Menras miểu tả những hình nhân và mộ gió bằng câu trả lời lãnh đạo Lý Sơn chẳng hạn, thì chắc chắn là phim phát sóng ngay, thậm chí phát đi phát lại, phát mãi không thôi. 
Lại nữa, trong bộ phim được báo chí đánh giá rất hay này, ông André Menras chỉ gặp gỡ, phỏng vấn nào là ông ngư phủ ra Hoàng Sa từ cái thời trước 75, nào là người đàn bà có cha tử nạn ở Hoàng sa, rồi một người đàn bà ngư dân nói không đi biển là đói, là phải mượn gạo ăn nên phải đi, rồi một người đàn bà khác thì nói chồng chết ngoài biển mấy năm mà nghèo quá, khổ quá không có xây được ngôi mộ cho chồng…nghe nó không được hồng hào tươi tắn như các phóng sự báo chí lâu nay vẫn phát sóng. 
Như Báo Thanh niên nói: Đây là phim hay, một bộ phim tài liệu làm về thân phận người dân Lý Sơn, về văn hóa người dân biển, và vùng đất này nhiều đời gắn với Hoàng Sa. Báo Thanh niên đã trích một lời phát biểu của André Menras rất hay là muốn gửi một thông điệp rất rõ ràng và lạc quan tới cộng đồng thế giới về Việt Nam chúng ta: Cộng đồng ấy, dân tộc ấy sẽ không nhượng bộ cho ai một tấc đất, một tấc biển của mình. Họ sẽ không bao giờ bỏ cuộc!”. 
Tạp chí Nhân quyền của Chính phủ khen phim 
Báo chí khen ( trong đó có báo Thanh Niên như đã dẫn) 
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ủng hộ làm phim này.
Sao nói không có tính đảng rồi không phát sóng? 
Sao lại cấm chiếu? 
Điều này nếu xảy ra mới hài: Chính những người trực tiếp ra lệnh không cho chiếu phim này lại chưa xem phim. Dễ xảy ra điều đó lắm. 

Sai.
Buồn. 
Cà phê nhé.
"Thái Dương" NGUYỄN VĂN XANHMột người như mọi người!

* William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).

Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn g=E 1n trong phần tổn thất của quân bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích". Chấm hết!

Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT
* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nh ì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.
Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt t5n công mà người Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.

[1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]

Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.

Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.

Hôm đó là ngày=2 09 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung v ới tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ!

Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng20thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.

Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã20vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.

Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.
Sau khi cất cánh khỏi phi trường Ko ntum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.

Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật20chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.

Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngC3y trước khi bị bắt.

* * *
Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá. Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai20cái hamburger còn sống.

Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì c ng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái "cầu" này để vào trại.

Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bB gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!
Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.

"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài c i hố xí để bạn phóng uế xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không c bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.
Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có "vấn đề". Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây "yucca" ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hB được cạo râu.
Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.
Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.

* * *
Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!

Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố g=E 1ng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi", tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.

Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.
Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.

* * *

Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.
Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lA 1i còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lFm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.
Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.
Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại20ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!
Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậ y, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.


* * *
Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bư ớc đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng v0o người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!

Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm cB 4ng việc áp giải.
Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội" lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.

* * *
Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.
Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.

Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong m t ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.

Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, tr ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.

Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.



MY FRIEND XANH - Bill Reeder in Vietnam
http://www.veterantributes.org/TributeDetail.asp?ID=1362 

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

Làm thế nào để thua Trung Quốc thật nhanh? - VOA - Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc - Blog

Tôi mới đọc bài "Làm thế nào để Trung Quốc đánh bại Mỹ?" (How China Can Defeat America) của Diêm Học Thông (Yan Xuetong) trên tờ The New York Times. Một bài viết thật hay. Trong đó, Diêm Học Thông vạch ra kế sách để Trung Quốc có thể thắng Mỹ và trở thành siêu cường quốc số một trên thế giới.
Diêm Học Thông sinh năm 1952, tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Berkeley, California năm 1992 và hiện đang làm giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc tế Hiện đại tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng, người được tạp chí Chính sách Đối ngoại (Foreign Policy) của Mỹ bình chọn là một trong 100 trí thức công chúng có ảnh hưởng nhất thế giới vào năm 2008. Ông cũng là người, như lời chính ông tự nhận trong bài viết, bị nhiều học giả Tây phương liệt vào thành phần “diều hâu” ở Trung Quốc.
Trong bài viết nêu trên, Diêm Học Thông cho biết, trong tình hình hiện nay, khi kinh tế của Trung Quốc càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, một cuộc đối đầu giữa Trung Quốc là Mỹ là điều không thể tránh khỏi. Nhiều nhà lãnh đạo trấn an dân chúng là cuộc đối đầu sẽ diễn ra trong hòa bình. Nhưng Diêm Học Thông không tin vào điều đó. Theo ông, một siêu cường mới nổi bao giờ cũng muốn khẳng định vị thế của mình, điều mà siêu cường được xem là độc nhất và độc tôn trong hiện tại không bao giờ chấp nhận được. Huống gì giữa Trung Quốc và Mỹ lại có những xung khắc hầu như không thể hóa giải được về ý thức hệ và thể chế chính trị. Không hóa giải được thì sao? Thì có chiến tranh. Chứ còn gì nữa?
Nhưng theo Diêm Học Thông, nếu xung đột diễn ra, trong tình hình hiện nay, Trung Quốc không thể thắng được. Dù Mỹ có suy thoái đến mấy thì Mỹ vẫn mạnh hơn ở hai điểm quan trọng: Thứ nhất, Mỹ có nhiều kinh nghiệm chiến tranh hơn. Gần đây, Mỹ tiến hành cả ba cuộc chiến tranh cùng lúc: ở Iraq, Afghanistan và Libya. Mà vẫn đầy sinh lực. Còn Trung Quốc thì từ sau chiến tranh với Việt Nam vào năm 1979, không hề tham gia vào một trận đánh lớn nào. Hầu hết các tướng lãnh, do đó, đều không có kinh nghiệm trận mạc. Nhưng yếu tố thứ hai này mới thực quan trọng: Mỹ có đồng minh quân sự ở khắp nơi. Với hơn 50 quốc gia. Trong đó không ít đồng minh sẵn sàng sống chết với Mỹ. Còn Trung Quốc thì hoàn toàn không. May lắm thì có Bắc Hàn và Pakistan. Nhưng đó không hẳn là đồng minh. Khi xảy ra chiến tranh với Mỹ, chưa chắc đã có nước nào nhảy vào đứng chung chiến tuyến với Trung Quốc.
Theo Diêm Học Thông, đó chính là điểm yếu nhất của Trung Quốc. Muốn khắc phục được nhược điểm ấy, tức muốn mạnh hơn Mỹ và đánh thắng được Mỹ, Trung Quốc phải chiến thắng, trước tiên, trái tim của mọi người trên thế giới. Nhưng để chiến thắng mặt trận đó, những cuộc viện trợ kinh tế hào phóng mà Trung Quốc đã vung tay thực hiện rõ ràng là không đủ. Diêm Học Thông đề nghị: để chinh phục thiện cảm của thế giới, phải bắt đầu từ ngay trong nhà mình: chính phủ phải chuyển trọng tâm từ việc phát triển kinh tế sang việc xây dựng một xã hội hài hòa, bình đẳng, không có khoảng cách quá xa giữa người giàu và người nghèo; phải từ bỏ tâm lý sùng bái tiền bạc để đề cao các giá trị đạo đức truyền thống; phải chống tham nhũng để xây dựng một quốc gia công chính và bình quyền. Đối với nước ngoài, Trung Quốc phải thể hiện một gương mặt nhân đạo, phải có chính sách ngoại giao có chất lượng cao hơn hẳn Mỹ, đặc biệt về phương diện đạo đức, phải dám nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ các nước nhỏ và yếu. Hơn nữa, Trung Quốc phải cố gắng thu hút thật nhiều nhân tài từ khắp nơi trên thế giới để nâng cao khả năng quản trị của mình.
Nói cách khác, theo Diêm Học Thông, cuộc chiến tranh thực sự giữa Trung Quốc và Mỹ là cuộc chiến tranh nhằm tranh thủ nhân tâm trên thế giới. Cuối cùng, quốc gia nào chứng minh được rõ thứ quyền lực nhân đạo nhất, quốc gia ấy sẽ chiến thắng.
Kể ra, nếu, trong tương lai, Trung Quốc thực sự là một siêu cường mang bộ mặt nhân đạo như thế thì việc nước nào thắng trong trận chiến Trung-Mỹ cũng chẳng phải là một vấn đề gì quan trọng khiến chúng ta phải quan tâm.
Tôi nhắc đến bài báo của Diêm Học Thông vì một lý do khác. Đọc xong, trong óc lóe lên ý nghĩ: sẽ viết một bài, đại khái, làm thế nào để Việt Nam thắng Trung Quốc? Nhưng nghĩ tới nghĩ lui, thấy không ổn. Thứ nhất, mình chỉ là một blogger chứ chả phải chính khách chính khiếc gì cả; bàn những vấn đề như vậy, nghe "nổ" quá. Thứ hai, chuyện Việt Nam thắng Trung Quốc giống như một thứ khoa học viễn tưởng. Cả hai đều không nên chút nào. Thôi thì bàn chuyện làm thế nào để thua Trung Quốc một cách nhanh chóng vậy.
Một đề tài như thế đã bao hàm cái ý là Việt Nam nhất định thua Trung Quốc. Không cần bàn cãi nữa. Chỉ phân tích vấn đề là: làm thế nào để thua cho nhanh thôi.
Nói thế, tôi biết, nhiều người sẽ cho là nhảm. Muốn thua nhanh ư? - Dễ quá! Cứ ký một hiệp ước trao nhượng chủ quyền cho Trung Quốc là xong ngay thôi. Hay cứ để Trung Quốc tràn qua biên giới tiếp quản Bộ chính trị, Trung ương Đảng và guồng máy chính phủ. Là xong. Chỉ mất vài tuần, hay nhiều lắm, vài tháng.
Nhưng một "kế hoạch" như thế chắc chắn là bất khả thi. Lý do thứ nhất là dân chúng sẽ bất mãn và sẽ quyết liệt tranh đấu, thứ nhất, với những kẻ bán nước, và thứ hai, với những kẻ cướp nước. Lý do thứ hai là các nước Đông Nam Á sẽ hoảng lên: Trung Quốc chiếm Việt Nam, thế nào cũng tràn qua Lào và Miên, sau đó, Thái Lan, Miến Điện, Singapore, Mã Lai Á và Indonesia. Thuyết domino một thời nổi tiếng lừng lẫy lại tái hiện. Úc, xa xôi đến vậy, cũng sẽ run bắn lên. Dĩ nhiên, họ sẽ không khoanh tay chờ Trung Quốc xông vào nhà. Nhưng có lẽ sẽ không có nước nào đủ can đảm trực diện khai chiến với Trung Quốc. Cách thức quen thuộc, ít tốn kém và không chừng hiệu quả nhất là đổ viện trợ, kể cả vũ khí cho dân chúng Việt Nam để họ đánh nhau với Trung Quốc.
Như vậy, chiến tranh sẽ dằng dai. Và cuối cùng, như ngày xưa, Việt Nam sẽ đánh bật Trung Quốc và giành lại độc lập.
Bởi vậy, có thể nói "Kế hoạch" trao nhượng chủ quyền nghe tưởng dễ, nhưng thực tế, lại không thể thực hiện được. Đó là chưa kể, nó khá nguy hiểm. Lỡ lúc quân Trung Quốc chưa sang "tiếp quản", dân chúng nổi giận đứng lên tiêu diệt giới cầm quyền thì không biết họ sẽ chui vào đâu để trốn? Số lượng ống cống ở Việt Nam chắc không bằng Libya. Lại dơ bẩn nữa.
Tôi xin đề nghị một cách khác:
Hiểm họa lớn nhất đối với "kế hoạch thua nhanh" chính là ở dân chúng. Trọng tâm chiến lược, do đó, phải là dân chúng. Nhưng không thể giết hết dân chúng. Mà cũng không cần giết hết. Chỉ cần làm sao cho họ không thấy chuyện Trung Quốc đe dọa Việt Nam, đừng bất mãn vì chuyện Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, đừng nổi giận nếu một ngày nào đó lính Trung Quốc tràn sang Việt Nam. Làm được những điều đó là bảo đảm an toàn. Sẽ không có ai, trong dân chúng, nổi giận chính quyền nếu chính quyền ký hiệp ước trao nhượng chủ quyền. Sẽ không có ai, trong dân chúng, căm thù Trung Quốc khi Trung Quốc kiểm soát hết đất đai, rừng núi, hải đảo và cả vùng biển mênh mông của Việt Nam. Mọi người sẽ coi đó là những chuyện bình thường.
Dĩ nhiên, những việc như vậy cần phải có thời gian. Không nên sốt ruột. Cần có thời gian để dân chúng tập thói quen không quan tâm đến việc nước. Cần có thời gian để mọi người tập thói quen xài hàng giả của Trung Quốc và xem phim lịch sử Việt Nam đóng theo khuôn mẫu của Trung Quốc để dần dần nhận ra Việt Nam, thật ra, chỉ là một tỉnh lẻ của Trung Quốc. Cần có thời gian để mọi người tập thói quen nhịn nhục trước Trung Quốc. Cần có thời gian để mọi người tập thói quen xem bất cứ chuyện gì xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam đều không phải chuyện của mình.
Sau khi những việc như vậy đã hoàn tất thì việc Việt Nam được sát nhập vào Trung Quốc sẽ vô cùng an toàn và dễ dàng. Sẽ chẳng có ai bất mãn hay phản kháng cả. Lúc ấy, ngay cả khi Mỹ hay bất cứ nước nào "quỳ lạy" xin dâng vũ khí cho dân chúng Việt Nam để họ chống lại Trung Quốc thì cũng chẳng ai thèm nhận.
Lúc ấy, sứ mệnh coi như hoàn thành mỹ mãn.
À, mà này, đến đây, tôi mới nhận ra "kế hoạch" tôi vừa viết ở trên hình như cũng chẳng mới mẻ gì lắm, phải không?
Không chừng đã có kẻ áp dụng rồi.

Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc-Blog - VOA

Thời chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có tự do biểu tình

Phạm Quế Dương Vừa qua, ở Hà Nội và Sài Gòn có nhiều cuộc biểu tình đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và phản đối những hành động gây hấn ở Biển Đông của Trung Quốc. Những cuộc biểu tình này đều bị trấn áp, nhiều người bị bắt giữ, đánh đập.

Vì dư luận sôi động cả trong nước và nước ngoài về vụ việc này nên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cho xây dựng Luật biểu tình và giao Bộ Công An chủ trì soạn thảo. Trao đổi với báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, thiếu tướng, phó giáo sư, tiến sĩ Lê Văn Cương (nguyên Viện trưởng Viện chiến lược và khoa học Bộ Công An) nhắc lại rằng các Hiến pháp năm 1959,1980,1992,2001 đã ghi rõ các quyền tự do của công dân, trong đó có tự do biểu tình. Nhưng phần cuối ông nói "đi biểu tình phải báo cáo cho chính quyền 10 ngày đối với các nội dung như biểu tình về vấn đề gì, tuyến đường và lượng người; dự kiến, biểu ngữ ra sao …" (Báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh ngày 03/10/2011)

Như vậy tức là thiếu tướng, phó giáo sư, tiến sỹ công an cũng đồng ý có Luật biểu tình và cho biểu tình. Vậy mà có ông đại biểu Quốc hội nào đó phát biểu lăng nhăng, nhảm nhí quá! Thiết nghĩ, đối với loại cuồng ngôn loạn ngữ này thì chả nên thảo luận với họ làm gì. 

Ai cũng biết thời thực dân Pháp, dân ta đã tự do biểu tình đòi độc lập. Nhưng ít ai biết thời chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, ở Sài Gòn cũng có tự do biểu tình. 

Xin trích cuốn hồi ký không tên của tác gỉa Lý Quý Chung do nhà xuất bản Trẻ (của ta) xuất bản theo giấy phép xuất bản số 1666/CXB cấp ngày 18/11/2004, khổ lớn 15,5 x 23 cm dầy 487 trang viết về một cuộc tự do biểu tình ở Sài Gòn. (Lý Qúy Chung là một nhà báo, là nghị sĩ Quốc Hội thời Nguyễn Văn Thiệu nhưng không phải là Việt Cộng, là phái thân Dương Văn Minh, chống đối Nguyễn Văn Thiệu. Khi Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống thì Lý Quý Chung là Bộ trưởng Bộ Thông tin cùng tham dự cuộc đầu hàng của Dương Văn Minh ngày 30/4/1975. Sau đó tiếp tục làm cộng tác với 8 tờ báo Cộng sản, trong đó có làm Tổng thư ký báo Lao động tại Hà Nội. Và sau đó vẽ nhiều tranh, tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Sài Gòn, Hà Nội). 

Dưới đây là trích bài viết về một cuộc biểu tình tự do ở Sài Gòn thời Nguyễn văn Thiệu, trong cuốn sách đó: 

“Ngày ký giả đi ăn mày” là một cuộc xuống đường lớn nhất và được quần chúng công khai ủng hộ đông nhất trong thời kỳ chống Mỹ và chính quyền Thiệu. Về mặt công khai xuống đường như đã nói có bốn tổ chức báo chí khởi xướng nhưng chỉ cần nhìn vào những nhân vật dẫn đầu cuộc biểu tình thì biết ai đứng sau lưng sự kiện lịch sử của báo chí miền Nam; Ngoài chủ tịch Nghiệp đoàn Nam Việt Nguyễn Kiên Giang, các nhà báo lão thành như Nam Đình (chủ báo Thần Chung và sau là Đuốc Nhà Nam), Trần Tấn Quốc (chủ nhiệm tờ Tiếng Dội Miền Nam và là người khởi xướng giải Thanh Tâm cải lương) còn có nhà văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình tức Nguyễn Bảo Hóa, nhà báo Văn Mại (cựu tổng thư ký tòa soạn báo Buổi Sáng), Quốc Phượng, nhà thơ, nhà báo Kiên Giang Hà Huy Hà đều là nhà báo cộng sản chính cống! 

Chính quyền Thiệu biết trước cuộc xuống đường này vì trong làng báo có nhiều ký giả giả, ký giả chỉ điểm, ký giả làm việc cho trung ương tình báo. Nhưng chính quyền vẫn không thể ngăn chặn hoặc phá vỡ cuộc tổ chức xuống đường. Cuộc xuống đường lấy hình ảnh “ký giả ăn mày”. Để tố cáo sắc luật 007/72 đã khiến cho nhiều ký giả phải chịu cảnh thất nghiệp do nhiều tờ báo bị đóng cửa vì không có tiền đóng ký quỹ. Chính vì vậy nên mỗi ký giả tham dự cuộc xuống đường đều được Ban tổ chức phát cho một nón lá, một bị đệm của người ăn xin (đeo vào cổ) và một cây gậy. Lực lượng chính hỗ trợ cho các nhà báo là các dân biểu – nghị sĩ đối lập, trong đó có nhiều người đồng thời là nhà báo như anh Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung và tôi. Cuộc xuống đường diễn ra ngày 10 tháng 10 năm 1974, xuất phát từ trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, nằm trên đường Lê Lợi, giáp đường Tự Do (nay là Đồng Khởi). Lộ trình dự định của đoàn biểu tình là tuần hành trên đại lộ Lê Lợi, nhắm thẳng vào chợ Bến Thành nơi có đông đảo quần chúng chờ đợi. Tôi nói với người cảnh sát đứng trước mặt tôi với cái khiên che chắn ở giữa: “Anh có nhiệm vụ của anh là ngăn chặn biểu tình, tôi có nhiệm vụ của tôi với tư cách đại biểu của dân. Giữa tôi và anh chẳng có thù ghét gì. Tôi đẩy tới, anh lui lại có sao đâu.” Thật sự trước các nhà báo, các dân biểu – nghị sĩ và nghệ sĩ – trí thức rất hiền lành, lực lượng cảnh sát cũng không hăng hái lắm để ra tay đàn áp nếu họ không bị khiêu khích hoặc kích động làm mất đi sự bình tĩnh. Do đó khi đám đông “ký giả đi ăn mày” rướn tới một cách quyết liệt là hàng rào cảnh sát tự vỡ ra và dòng người biểu tình cuồn cuộn đổ. 

Ra đại lộ Lê Lợi như dòng sông đổ ra biển. Người dân hai bên đường hoan hô người biểu tình, nhiều người hào hứng nhập vào đoàn, nhất là thanh niên học sinh. Đến chợ Bến Thành, những người buôn bán trong chợ ào ra “bố thí”. Các ký giả ăn mày, nhét vào bị của chúng tôi đủ thứ bánh trái và quà tặng khiến cho hình ảnh ký giả đi ăn mày càng đậm nét. 

Rất mong rồi đây người dân nước CHXHCNVN có nền dân chủ gấp triệu lần tư bản cũng được biểu tình như thời Pháp thuộc, Thiệu thuộc. 
Phạm Quế Dương

Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc Cho Kẻ Thù Truyền kiếp Của Dân Tộc

Một hiện tượng

Nên hay không?

Lại một kiểu "Thu mua" thời bao cấp?

Đào Tuấn
image Trong cuốn "Đêm trước đổi mới", có một ví dụ về việc "thu mua" của nhà nước: Năm 1978 giá thành 1m2 vải calicot sản xuất tại xưởng của Công ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng. Tuy nhiên, mét vải đó phải bán cho Nhà nước với giá 1,2đ/m2. Đây là thời kỳ dân gian có thơ "Bắt phanh trần phải phanh trần/Cho may ô mới được phần may ô". Người dân có gì cũng phải bán cho Nhà Nước, với giá do Nhà nước ấn định, trong khi muốn mua gì thì chỉ được mua theo tiêu chuẩn, theo kế hoạch phân phối. Ông Trần Đức Nguyên, nguyên trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng cho rằng từ “thu mua” (vừa thu vừa mua) được hình thành từ thực tế này.
Ngày 23-11, Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định xử phạt Công ty TNHH Thương mại và Chế tác Vàng Ngọc Long số tiền 100 triệu đồng, tịch thu số ngoại tệ 12.195 USD đồng thời yêu cầu Giám đốc doanh nghiệp này phải bán 10.000 USD cho một tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Căn cứ xử phạt là nghị định 95 vừa được ban hành và có hiệu lực ngay trong ngày 20-11. Cùng với Ngọc Long, còn có một DN tư nhân khác bị phạt, bị buộc phải bán lại ngoại tệ và Đại học FPT bị xử phạt 500 triệu đồng do niêm yết học phí bằng USD.


Bắc Kinh bất ngờ trước chính sách cứng rắn của Hoa Kỳ

Thanh Quang, phóng viên RFA
Mối quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc tiếp tục căng thẳng đáng kể khi diễn tiến vừa qua tại các hội nghị thượng đỉnh vùng Á Châu-Thái Bình Dương chứng kiến quyết tâm mới của Mỹ kéo theo mối nghi ngại cùng phẫn nộ gia tăng của Bắc Kinh.
clip_image002
AFP Photo/ Saul Loeb

Tồi tệ hơn côn đồ

Của CA, trả CA


“Cái gì của Cézar, hãy trả lại cho Cézar” 

Nguyễn Bá Chổi (danlambao) - Kính thưa chú Chủ Tịch Nước: Những hành vì trên đây rõ ràng hoàn toàn không phải của giai cấp Côn Đồ, vì Côn Đồ với Công An là hai giai cấp tối kỵ với nhau, không thể có chuyện “hợp đồng tác chiến” như vậy được. Ấy vậy mà người ta cứ hô bọn thủ phạm là Côn Đồ hay “quần chúng tự phát”. Nếu “cái áo không làm nên thầy tu”, thì Côn đồ dù là thứ thiệt nhưng khi “tác nghiệp dưới sự chỉ đạo của CA thì không còn là Côn Đồ nữa...
 
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc 

ĐƠN KÊU OAN 

Kính gửi Ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch Nước CHXHCNVN 
Kính thưa chú Chủ Tịch Nước, 

Chúng cháu ký tên dưới đây không phải một con sâu mà một bầy sâu - à chết cha vì thấm nhuần đạo đức chống tham nhũng của chú Chủ Tịch mà chúng cháu bị nhập tâm câu danh ngôn của Chú ai nghe cũng đã... nư, cháu lỡ mổ cò nhưng không biết mò nút nào để xoá (cháu còn tệ hơn đứa cháu gái của chú Bộ trưởng Văn hoá Thể thao Du lịch mới năm tháng tuổi mà biết ngồi dậy bấm nút bầu chọn Vịnh Hạ Long làm kỳ quan khiến cả thế giới ngán... ngao), xin Chú thông cảm, nếu cháu có vì bức xúc mà viết linh tinh lang tang nữa thì Chú cũng chịu khó đọc cho hết đơn nha. 
Để cháu bắt đầu lại. Chúng cháu không phải một tên mà cả tập thể giai cấp Côn Đồ, viết đơn này kính xin chú Chủ Tịch Nước bớt chút thời giơ công du Đu Dây (không phải Đu Bay bên Ả Rập) thương tình cứu xét lại việc giai cấp chúng cháu bị vu oan giá vạ lâu nay. 
Kính thưa chú Chủ Tịch Nước, 
Những chuyện vu oan cho giai cấp Côn Đồ chúng cháu thì nhiều quá. Cháu không tài nào liệt kê ra đây hết; vả lại nếu làm được việc này thì Chú có bỏ việc nước để suốt ngày chỉ có ngồi đọc, nằm đọc, đi đọc, đứng đọc, ăn uống đọc, đang mần chi chi cũng đọc, rồi đưa tiếp xuống âm phủ đọc miết cũng không xong. Nên chi cháu chỉ trình chú Chủ Tịch vài trường hợp điển hình trong đơn kêu oan này mà thôi. 
Nhưng thưa Chú, trước khi nêu ra vài thí dụ giai cấp Côn Đồ chúng cháu bị oan, cháu xin Chú đừng xem đây là “chuyện nhỏ” do Chú đã bị nghe quen đến ù tai, thấy quen đến chai mắt tiếng kêu gào cùng đơn khiếu kiện của dân oan khắp nước suốt mấy chục năm qua sau ngày Miền Nam đưọc giải phóng khỏi bọn ác ôn Mỹ Ngụy, rồi quăng Đơn Kêu Oan này vào sọt rác như số phận bao kiến nghị của các nhà trí thức, các chú lão thành cách mạng, các tướng tá, kể cả kiến nghị của vị đại thần đại tướng Võ Nguyên Giáp, là những kẻ đã góp công lớn lao xây dựng nên chế độ ưu việt “nhân dân ta đang hưởng, thế giới đang mong hưởng” (cháu bắt chước viết hai câu này theo kiểu vè Nghệ Tĩnh, cho đỡ nhớ bác Hồ mà lâu lắm cháu không đến sắp hàng lấy cớ viếng bác nhưng để được phát ổ bánh mì thịt vượt tiêu chuẩn “kỳ quan”).
Những người kêu oan vì mất oan tài sản, chết oan mạng sống, do tay ai còn hỏi “ai trồng khoai đất này”, nhưng tài sản và mạng sống đâu bằng danh dự, dù là danh dự của giai cấp Côn Đồ bọn cháu. 
Côn Đồ có danh dự của Côn Đồ. Côn Đồ chính hiệu luôn tự hào với danh dự có làm có chịu. Côn Đồ đường đường chính chính nhận việc Côn Đồ làm chứ không núp sau lưng kẻ khác. Côn Đồ xem vậy chứ có đạo lý của Côn Đồ. Côn Đồ biết “kính nhi viễn nhi” bậc thần thánh dù tin hay không tin; Côn Đồ biết tôn trọng những người tu trì của mọi tôn giáo. Côn Đồ không đụng đến mồ mã của người đã chết, ngay cả của những kẻ trước đây khi còn sống là thù địch một mất một còn không đội trời chung. Côn Đồ cũng không đánh chết người vô cớ... Đại khái là Côn Đồ vẫn ớn luật pháp và sợ ông Trời. 
Vậy mà oan nghiệt thay, suốt bao năm tháng qua, giai cấp Côn Đồ chúng cháu đã bị bọn xấu hơn côn đồ nữa trút lên đầu chúng cháu trách niệm những việc làm đại loại như thế. Dưới đây chúng cháu chỉ nhắc qua vài vụ, chỉ “nhắc qua” vì sự thể đầu đuôi thì Chú nếu không đọc đạch cũng đã nghe rồi vì tràn làn trên in tẹc nét, 
Đó là việc người ta quăng đồ ô uế lên tượng Đức mẹ Sầu Bi trong khu đất Toà Khâm sứ Hà Nội. Vụ vào nhà thờ Thái Hà chửi rủa hành hung các tu sĩ và giáo dân. Vụ giáo dân Tam Toà bị hành hung, hai linh mục giáo xứ bạn đến thăm bị đánh u đầu, bầm mặt, gãy tay. Vụ 400 tăng ni Chùa Bát Nhã Đà Lạt bị khủng bố, hành hung, lột quần xé áo đuổi khỏi chùa trong giông bão. Vụ anh Trương Công Toàn bị Công An xã Khánh Bình, Tân Uyên Bình Dương đánh trọng thương tại đồn.
Vụ mới đây, nhà thờ Thái Hà lại tấn công đập phá cửa ngõ, xông vào bên trong đánh đập, lăng ma tu sĩ và giáo dân, đập phá cửa nhà thờ. Và mới nhất là chiều 20/11/2011, hai linh mục giáo xứ Thái Hà đang dâng lễ cho các thiếu nhi, các lễ sinh thì bất ngờ nhà cầm quyền Hà Nội cho một người mặc trang phục nhà nước trang bị, đội mũ, cầm dùi cui điện xông thẳng vào nhà thờ, xông lên Cung Thánh và đánh linh mục đang tế lễ. Bên ngoài, lực lượng an ninh, một đám mặc trang phục khác đứng hỗ trợ và sẵn sàng xông vào nhà thờ. (1)

Kính thưa chú Chủ Tịch Nước, 
Những hành vì trên đây rõ ràng hoàn toàn không phải của giai cấp Côn Đồ, vì Côn Đồ với Công An là hai giai cấp tối kỵ với nhau, không thể có chuyện “hợp đồng tác chiến” như vậy được; hơn nữa, những mục tiêu như thế là điều tối kỵ với giai cấp Côn Đồ. Ấy vậy mà người ta cứ hô bọn thủ phạm là Côn Đồ hay “quần chúng tự phát”. Nếu “cái áo không làm nên thầy tu”, thì Côn đồ dù là thứ thiệt nhưng khi “tác nghiệp dưới sự chỉ đạo của CA thì không còn là Côn Đồ nữa. 
Xét thấy “Cái gì của Cézar thì trả lại cho Cézar” là chân lý và công lý, nên chúng cháu dù không dám viện dẫn điều nọ điều kia để yêu sách quyền phải được đối xử công bằng, nhưng chỉ dám khúm núm trong tinh thần xin-cho thôi, xin chú Chủ Tịch nước cho thâu hồi những món mà lâu nay giai cấp Cồn Đồ bị “cấp sổ đỏ” tức “sở hữu bất chính bấy lâu nay về lại cho sở hữu chủ đích thực của chúng. Của CA, trả lại CA. 
Trong khi chờ đợi được cứu xét đơn xin-cho trả này, kính xin chú Chủ Tịch Nước nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa của chúng cháu và toàn thể các đồng chí thuộc giai cấp Côn Đồ. 

Rất trân trọng, 
Nay kính đơn xin-cho 
Làm tại T.P Hồ Chí Minh quang vinh ngày 30/11/2011 
Ký tên: Cu Tèo, Tổng Đại Diện Giai Cấp CĐ



Tùy viên Đại sứ quán Mỹ ngỡ ngàng, sững sờ!


Giaoxuthaiha - Vào lúc 15giờ 20, ngày 18/11/2011, ông Michael Orana, tùy viên của Đại Sứ Quán Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã đến thăm các linh mục, tu sĩ và bà con giáo dân giáo xứ Thái Hà.  Ông Michael Orana cho biết: ông ngỡ ngàng vì mới cách đây 1 tuần tại Washington, D.C vị đại diện chính quyền Việt Nam đã báo cáo tình hình nhân quyền tại Việt Nam được tôn trọng, mà bây giờ những việc vừa xảy ra tại giáo xứ Thái Hà thì hoàn toàn ngược lại những gì được báo cáo.

Hàn Quốc phá 'thế trận' tàu cá Trung Quốc

Lực lượng tuần duyên Hàn Quốc phá thế trận của hàng chục tàu Trung Quốc, bắt tổng cộng 15 tàu cá và hơn một trăm ngư dân Trung Quốc vì xâm phạm lãnh hải.

Hàng ngàn người Trung Quốc biểu tình phản đối chính sách tịch thu đất